CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM (1)
Sưu tầm
---o0o---
1 - Người Ba Na
Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia
Người
Ba Na (các tên gọi
khác: Ba Na Dưới Núi, Ba Na Đông, Ba Na
Tây, Ba Na Trên Núi, Tơ Lộ, Bơ Nâm, Glơ Lâng, Rơ Ngao, Krem, Roh, Con Kde, A la
công, Krăng, Bơ Môn, Kpăng Công, Y Lăng) có dân số 174.456 người (đến
năm 2003)
Địa bàn cư trú
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2009, người Ba Na ở Việt Nam có dân số 227.716 người, cư trú tại 51 trên tổng
số 63 tỉnh, thành phố. Người Ba Na cư trú tập trung tại các tỉnh Gia Lai:
(150.416 người, chiếm 11,8% dân số toàn tỉnh và 66,1% tổng số người Ba Na tại
Việt Nam), Kon Tum (53.997 người, chiếm 12,5% dân số toàn tỉnh và 23,7% tổng số
người Ba Na tại Việt Nam), Phú Yên (4.145 người, chiếm 12,5% dân số toàn tỉnh
và 23,7% tổng số người Ba Na tại Việt Nam), Bình Định (18.175 người, chiếm 8,0%
tổng số người Ba Na tại Việt Nam), Đăk Lăk (301 người), Bình Thuận (133 người)[1].
Người Ba Na có nhiều tên gọi khác nhau theo nơi cư trú hay phong tục tập
quán mỗi vùng.
Ngôn ngữ
Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer.
Nhà cửa
Ở mỗi làng có một nhà công cộng là nhà Rông to, đẹp ở giữa làng. Nhà
rông cao lớn và đẹp đứng nổi bật giữa làng, đó là trụ sở của làng, nơi các già
làng họp bàn việc công, nơi dân làng hội họp, nơi trai chưa vợ và góa vợ ngủ
đêm, nơi tiến hành các nghi lễ phong tục của cộng đồng và cũng là nơi tiếp
khách lạ vào làng.
Nhà ở của người Ba Na thuộc loại hình nhà sàn. Trước đây khi chế độ gia
đình lớn còn thịnh hành, ở vùng người Ba Na sinh sống thường có những căn nhà
dài hàng trăm mét, tuy nhiên hiện nay chế độ gia đình lớn không còn nữa, mô
hình các gia đình nhỏ với những căn nhà sàn gọn gàng xuất hiện ngày càng nhiều.
Nhà sàn ngắn của các gia đình nhỏ là phổ biến. Nhà sàn thường dài từ 7m đến
15m, rộng từ 3m-4m, cao từ 4m-5m, sàn cách mặt đất khoảng 1m đến 1,5m
Mặc dù có nhiều thay đổi, nhưng vẫn tìm được ở nhiều địa phương khác nhau
những ngôi nhà Ba Na với những đặc điểm đặc trưng của nhà cổ truyền Ba Na là
nhà nóc hình mai rùa hoặc chỉ còn là hai mái chính với hai mái phụ hình khum -
dấu vết của nóc hình mai rùa. Chỏm đầu dốc có "sừng" trang trí (với các kiểu
khác nhau tùy theo địa phương). Vách che nghiêng theo thế "thượng thách hạ
thu". Có nhà, cột xung quanh nhà cũng chôn nghiêng như thế vách. Thang đặt
vào một sàn lộ thiên trước cửa nhà. Trên sàn này người ta đặt cối giã gạo (cối
chày tay). Điểm đáng chú ý là dưới đáy cối có một cái "ngõng". Khi
giã gạo người ta cắm cái ngõng ấy vào một cái lỗ đục trên một thanh gỗ đặt trên
sàn.
Nhà tre vách nhưng có thêm lớp đố, bên ngoài buộc rất cầu kỳ như là một
lớp trang trí.
Bộ khung nhà kết cấu đơn giản. Có làm vì kèo nhưng vẫn trên cơ sở của vì
cột. Tổ chức mặt bằng đơn giản.
Hôn nhân, gia đình
Người Ba Na cho phép tự do tìm hiểu và lựa chọn bạn đời, việc cưới xin
đều theo nếp cổ truyền. Vợ chồng trẻ ở luân phiên mỗi bên một thời gian, theo
thỏa thuận giữa hai gia đình hai bên, sau khi sinh con đầu lòng mới làm nhà
riêng. Trẻ em luôn được yêu quý. Dân làng không đặt trùng tên nhau. Trong
trường hợp những người trùng tên gặp nhau, họ làm lễ kết nghĩa, tùy tuổi tác mà
xác lập quan hệ anh-em, cha-con, mẹ-con.
Các con được thừa kế gia tài như nhau. Trong gia đình, mọi người sống
hòa thuận bình đẳng. Người Ba Na thờ cúng nhiều thần linh.
Trước đây, trai gái Ba Na khi đến tuổi trưởng thành (20 tuổi đối với
nam; 18 tuổi đối với nữ), được tự do yêu thương, tìm hiểu lẫn nhau, nhưng quyền
quyết định đi đến hôn nhân không phải không có ảnh hưởng của cha mẹ. Trong thực
tế, nhiều khi cha mẹ can thiệp rất nhiều vào chuyện hôn nhân của con cái. Thậm
chí, trong một số trưởng hợp, quyết định gả cưới của cha mẹ hoàn toàn đi ngược
lại mong muốn của các con. Chính vì vậy, trong ngôn ngữ của người dân ở đây tồn
tại hai thuật ngữ hôn nhân. Trong tường hợp trai gái tự do yêu đương và tìm
người bạn đời tiến tới hôn nhân, người dân gọi là chărơihkơ ding (hôn
nhân tự chọn); trường hợp cha mẹ quyết định gả bán con theo ý kiến riềng của
mình, người dân gọi là mẽ bă pơ giao ăn (cha mẹ gả bán)
Trong thời điểm hiện nay, trai gái yêu thương và tự nguyện đến với hôn
nhân phổ biến hơn nhiều so với quyết định gả bán của cha mẹ. Tuổi kết hôn cũng
đang co xu hướng tăng lên, thường con trai trên 25 tuổi mới lấy vợ, con gái khoảng
20 tuổi mới lấy chồng. Việc gả bán con cái theo ý riêng của cha mẹ thường chỉ
xảy ra giữa gia đình giàu có với gia đình nghèo vì lý do kinh tế, hay sắc đẹp.
Các gia đình tương đương về điều kiện kinh tế, về địa vị xã hội thì con cái của
họ phần lớn tự do tìm hiểu để đi đến hôn nhân. Tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời, lựa
chọn thông gia dựa trên việc so sánh giàu nghèo đã ít còn được đặt ra như trong
quá khứ. Sự chênh lệch tuổi tác giữa nam và nữ (thậm chí chênh lệch nhiều) cũng
không phải là điều quan trọng. Vấn đề mang tính quyết định để đi đến hôn nhân,
trong thời điểm hiện tại là trai gái phải thương yêu nhau. Tiêu chuẩn hàng đầu
để các chàng trai, cô gái nơi đây chọn bạn đời chính là đạo đức, sức khoẻ và
tính cần cù, siêng năng và thạo việc.
Đối với người Ba Na, hôn nhân một vợ một chồng từ lâu đã mang tính phổ
biến và bền vững. Trong làng, vào thời điểm hiện tại, tất cả đều là các gia
đình một vợ một chồng sinh sống cùng con cái. Dù do cha mẹ gả bán hay do họ tự
tìm đến với nhau do tiếng gọi của tình yếu thì hầu như tất cả các cặp vợ chồng
đều sống với nhau hạnh phúc đến đầu bạc, răng long. Rất ít trường hợp li dị.
Các lí do dẫn đến li dị giữa các cặp vợ chồng thường là do người vợ vô sinh,
đàn ông ngoại tình hay có những bất hòa không giải quyết được dẫn đến chửi
mắng, đánh đập nhau. Hiện nay, giải quyết vấn đề li dị của các cặp vợ chồng
không chỉ dừng lại ở quyết định của Hội đồng già làng như trước kia, mà phải
được đưa ra xử lý theo pháp luật hiện hành của Nhà nước. Tuy nhiên, khi vừa xẩy
ra những lục đục giữa các cặp vợ chồng trong làng, Hội đồng già làng, thông qua
Tổ hòa giải đã thể hiện vai trò của mình. Nếu việc hoà giải không đạt được kết quả
như ý, hai vợ chồng vẫn quyết ly dị thì họ buộc phải đưa vụ việc ra giải quyết
trước luật pháp.
Là một dân tộc theo nguyên tắc ngoại hôn dòng họ nên phong tục của người
Ba Na khuyến khích những đôi trai gái khác dòng họ kết hôn với nhau. Nếu xác
định được rõ ràng hai người trong cùng một krung ktum thì chuyện cưới
xin khó xẩy ra. Tuy nhiên, do có sự phân biệt giữa họ gần và họ xa nên nguyên
tắc hôn nhân ngoài dòng họ ở đây được thực thi với hai cấp độ khác nhau:
Thứ nhất, toàn bộ các thành viên nam nữ thuộc họ gần (krung ktum gel),
tức là con cháu trong vòng ba đời của một ông bà tổ, bao gồm cả bên cha và bên
mẹ, như: con cô, con cậu, con chú con bác, con dì con già; cháu cô cháu cậu,
cháu chú cháu bác, cháu dì cháu già... tuyệt đối không có quan hệ tính giao và
hôn nhân. Với người Gia-rai, một dân tộc láng giềng, cư trú tập trung tại tỉnh
Gia Lai, không có sự ngăn cấm kết hôn một cách nghiêm ngặt giữa hai người cùng
một dòng họ thuộc đời thứ ba, nhất là con cô con cậu. Người Ba Na làng Kon Rờ
Bàng thì khác, nếu ai vi phạm quy định đó tức đã mắc tội loạn luân (hagăm)
và bị làng xử phạt rất nặng theo luật tục. Họ cho rằng người cùng một dòng họ
lấy nhau là trái với đạo đức, khiến thần linh nổi giận gây ra các tai họa để
trừng phạt con người như cháy làng, dịch bệnh, mất mùa... Dòng họ nào để xảy ra
chuyện đó sẽ phải chuẩn bị đủ 3 con trâu, 3 con dê, 3 con gà và 3 ché rượu để
cúng thần nhà rông, thần nước để giải hạn cho dân làng và chính hai gia đình
đó. Nghi thức quan trọng nhất trong lễ cúng là chủ làng đọc lời cúng mời giàng
về ăn uống và dân làng buộc đôi trai gái bị phạt lấy một ít tiết của con vật
hiến sinh hòa với rượu, đổ vào vỏ bầu mang đến từng nhà trong làng, dùng cành
cây tre nhúng vào quả bầu đựng nước rồi quết lên chân cầu thang với ngụ ý xua
đuổi, tẩy uế mọi rủi ro tai họa, mong giàng đừng bắt tội dân làng...
Thứ hai, các thành viên nam, nữ thuộc họ xa (krung ktum gel), tức
là con cháu của một ông bà tổ, từ đời thứ bốn trở lên, tính theo đằng cha, cũng
có thể lấy được nhau, nhưng phải làm một lễ cúng nhỏ tạ lỗi với tổ tiên. Khi đó
họ sẽ không mắc vào tội loạn luân và không vi phạm luật tục.
Những trường hợp nam, nữ quan hệ tình cảm sâu nặng với nhau mà không đi
đến hôn nhân, không làm thủ tục cưới hỏi thì làng thì bắt vạ một con dê, một
con bò, hoặc một con gà. Trước thập niên 60, trai gái chưa cưới xin có quan hệ
với nhau lỡ có con, phải tiến hành lễ cúng thần trước khi trỉa lúa, vào khoảng
đầu tháng 4, với lễ vật là một con dê và một con lợn. Người dân quan niệm các
trường hợp vi phạm này đã làm ảnh hưởng đến thần đất, thần lúa nên buộc phải
tiến hành lễ cúng phạt trước khi trỉa lúa nếu không dân làng sẽ mất mùa, đói
kém. Vào ngày tổ chức nghi lễ, những con lợn, dê lễ vật được giết thịt lấy máu
trộn với rượu. Cũng tương tự như những người mắc tội loạn luân, đôi trai gái
phạm tội phải lần lượt mang thứ máu chộn rượu đó bôi vào chân từng chiếc cầu
thang lên nhà trong làng, vừa bôi vừa xin lỗi mọi người xin đừng nhớ, xin bỏ
qua chuyện cũ... Trong trường hợp người con gái có chửa mà không chịu khai ra
bố của đứa trẻ thi cô ta sẽ phải chịu hình phạt một mình, từ trách nhiệm chuẩn
bị lễ vật tới việc thực hiện các thủ tục trong lễ cúng. Trường hợp hai bên cùng
nhau nhận lỗi thì chàng trai phải chịu trách nhiệm cao hơn. Không chỉ chuẩn bị
lễ vật nộp phạt và thực hiện nghi lễ, người con trai còn phải cưới cô gái làm
vợ và chăm sóc, nuôi dưỡng đứa trẻ nên người. Nếu đã bị phát hiện và thừa nhận
là cha của đứa trẻ mà không cưới cô gái và không chịu chăm sóc đứa trẻ, ngoài
việc nộp phạt cho làng, chàng trai còn phải đền cho cô gái một con bò. Trường
hợp người con gái có quan hệ với nhiều người con trai, khi có thai, chàng trai
có quan hệ với cô sau cùng phải đền nhiều hơn hoặc có thể chia thành các phần
trách nhiệm đều nhau.
Theo phong tục truyền thống của người Ba Na làng Kon Rờ Bàng, những
trường hợp chồng hay vợ chết sớm chưa được làm lễ bỏ mả, người goá có thể tái
giá, nhưng trước đó phải tiến hành một lễ cúng với lễ vật gồm một ghè ruợu, một
con gà. Sau khi tiến hành nghi lễ, việc tái giá của người goá được dân làng
đồng tình, ủng hộ. Vì vậy, nghi lễ này cũng có vai trò tương tự lễ bỏ mả. Tuy
nhiên, đó là lễ bỏ mả sớm. Thời gian sớm nhất có thể thực hiện nghi lễ này là 3
năm sau khi người chồng hoặc người vợ mất đi. Trong trường hợp người goá có
quan hệ trai, gái trước thời điểm này sẽ bị làng phạt một bò làm lễ cúng, vì
tội vi phạm quy định hôn nhân. Sau khi người mẹ chết, nếu bố lấy vợ mới, con
cái thường không ở với bố và mẹ kế mà về sống với ông bà nội. Chỉ khi ông bà
nội cũng đã mất, không còn nơi nương tựa, con của người vợ trước mới ở chung
với người vợ sau của bố. Trong trường hợp người đàn ông đang sống cùng vợ con, nhưng
lại có quan hệ tình cảm sâu nặng với người phụ nữ khác, luật tục bắt buộc ông
ta phải làm thủ tục li dị, bỏ người vợ trước mới có quyền cưới người vợ sau.
Kinh tế
Người Ba Na sinh sống nhờ nông nghiệp, chủ yếu là trồng rẫy. Cùng với
trồng trọt, từng gia đình thường có nuôi gia cầm, gia súc như trâu, bò, dê,
lợn, gà. Chó cũng được nuôi nhưng không bị giết thịt. Hầu như mỗi làng đều có
lò rèn. Một số nơi biết làm đồ gốm đơn giản, phụ nữ dệt vải tự túc đồ mặc trong
gia đình. Đàn ông đan chiếu, lưới, các loại gùi, giỏ, mủng... Việc mua bán theo
nguyên tắc hàng đổi hàng, , xác định giá trị bằng gà, rìu, gùi thóc, lợn hay
nồi đồng, ché, chiêng cồng, trâu, v.v..
Văn hóa
Nhạc cụ đa dạng: cồng, chiêng kết cấu đa dạng, đàn t’rưng brọ, khinh
khung, gôông, klông pút, kơni, kèn: tơ nốt, arơng, tơ tiếp, ... Nghệ thuật chạm
khắc gỗ phát triển. Trong kho tàng văn nghệ dân gian, còn phải kể đến các làn
điệu dân ca, các điệu múa trong những ngày hội hay các nghi lễ tôn giáo. Những
hình thức trang trí sinh động trên nhà rông và đặc biệt những tượng nhà mồ
v.v... mộc mạc, đơn sơ, nhưng tinh tế và sinh động như cuộc sống của người Ba
Na.
Trang phục
Trang phục nam: nam
giới Ba Na mặc áo chui đầu, cổ xẻ. Đây là loại áo cộc tay, thân áo có đường
trang trí sọc đỏ chạy ngang, gấu áo màu trắng. Nam mang khố hình chữ T theo lối
quấn ngang dưới bụng, luồn qua háng rồi che một phần mông. Ngày rét, họ mang
theo tấm choàng. Ngày trước nam giới búi tóc giữa đỉnh đầu hoặc để xõa. Nếu có
mang khăn thì thường chít theo kiểu đầu rìu. Trong dịp lễ bỏ mả, họ
thường búi tóc sau gáy và cắm một lông chim công. Nam cũng thường mang vòng tay bằng
đồng.
Trang phục nữ: Phụ nữ
Ba Na ưa để tóc ngang vai, có khi búi và cài lược hoặc lông chim, hoặc trâm
bằng đồng, thiếc. Có nhóm không chít khăn mà chỉ quấn bằng chiếc dây vải hay
vòng cườm. Có nhóm như ở An Khê, Mang Giang hoặc một số nơi khác họ chít khăn
trùm kín đầu, khăn chàm quấn gọn trên đầu. Trước đây, họ đội nón hình vuông
hoặc tròn trên có thoa sáp ong để khỏi ngấm nước, đôi khi có áo tơi vừa mặc vừa
che đầu. Họ thường đeo chuỗi hạt cườm ở cổ và vòng tay bằng đồng xoắn ốc dài từ
cổ đến khủy tay (theo kiểu hình nón cụt). Nhẫn được dùng phổ biến và thường
được đeo ở hai, ba ngón tay. Tục xả tai phổ biến vừa mang ý nghĩa trang sức vừa
mang ý nghĩa tín ngưỡng của cộng đồng. Hoa tai có thể là kim loại, có thể là
tre, gỗ. Tục cà răng mang theo quan niệm của cộng đồng hơn là trang sức. Phụ nữ
Ba Na mặc áo chủ yếu là loại chui đầu, ngắn thân và váy. Áo có thể cộc tay hay
dài tay. Váy là loại váy hở, thường là ngắn hơn váy của người Ê-Đê, ngày nay
thì dài như nhau. Quanh bụng còn đeo những vòng đồng và cài tẩu hút thọc vào
đó.
Về tạo hình áo váy, người Ba Na không có gì khác biệt mấy so với dân tộc
Gia-rai hoặc Ê-đê. Tuy nhiên, nó khác nhau ở phong cách mỹ thuật trang trí hoa
văn, bố cục trên áo váy của người Ba Na. Theo nguyên tắc bố cục dải băng theo
chiều ngang thân người, dân tộc Ba Na dành phần chính ở giữa thân áo và váy với
diện tích hơn một nửa áo, váy cũng như hai ống tay để trang trí hoa văn (chủ
yếu là hoa văn với các màu trắng đỏ), nền chàm còn lại của áo váy không đáng kể
so với diện tích hoa văn. Thắt lưng váy được dệt thêu hoa văn và tua vải hai
đầu, được thắt và buông thõng dài hai đầu sang hai bên hông.
Người Ba Na nổi tiếng
Anh hùng Đinh Núp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét