Thứ Hai, 30 tháng 6, 2014

DỊ NHÂN TÓC RỒNG

“Dị nhân” có mái tóc “rồng” 70 năm không gội
-o0o-

Cụ ông Nguyễn Văn Chiến, 87 tuổi (ngụ ấp Dầu, Đông Hòa, Châu Thành, Tiền Giang) có mái tóc dài hơn 3m, kết lại như hình con rồng. Điều đặc biệt là cụ Chiến đã giữ mái tóc này mấy chục năm cuộn tròn trên đầu và không bao giờ gội.

Nhiều người dân địa phương gọi cụ Chiến là “dị nhân” vì mái cụ sở hữu tóc dài hơn 3m cuộn tròn trên đầu và chỉ sống một mình trong căn nhà nhỏ ở góc vườn. Cụ Chiến cho biết: “Tôi để tóc dài từ nhỏ nhưng khi đi học thầy cô nói tóc dài bất tiện nên khuyên tôi cắt tóc ngắn. Tôi về nhà xin phép cha mẹ rồi cắt tóc để được đi học. Đến năm khoảng 17 tuổi tôi nghỉ học và để mái tóc dài cho tới bây giờ. Với quan niệm cha mẹ sinh sao để vậy nên mái tóc dài ra bao nhiêu tôi để nguyên chứ không cắt bỏ. Khi tóc dài không cần phải thắt bím mà tự nhiên tết lại thành cuộn”.
Tuy để tóc dài nhưng cụ Chiến cuộn lại gọn gàng trên đỉnh đầu rồi chụp lại bằng 1 túm vải nên không hề thấy vướng víu.
Cụ Chiến với mái tóc dài 3m kết lại trên đầu
Cụ Chiến với mái tóc dài 3m kết lại trên đầu
Mái tóc dài hơn 3m, 70 năm không cắt, gội
Mái tóc dài hơn 3m, 70 năm không cắt, gội
Trước năm 1975, cụ Chiến sang tỉnh Bến Tre tu trong chùa theo đạo Dừa. Sau này, khi đạo Dừa tan rã, cụ về quê với vợ con cho tới bây giờ. Tuy nhiên cụ vẫn có thói quen ăn chay, làm việc thiện và ngồi thiền, cầu nguyện cho quốc thái, dân an.
Mái tóc được cuộn tròn trên đỉnh đầu...
 Mái tóc được cuộn tròn trên đỉnh đầu...
... và được túm trong túi vải rất gọn gàng
... và được túm trong túi vải rất gọn gàng
Hằng ngày cụ Chiến thức dậy rất sớm, đi quét rác ở con đường trong xóm, ghé nhà đứa con nhận phần cơm chay rồi trở về căn nhà nhỏ của mình trong vườn, ngồi thiền ở bụi tre trước cửa. Theo cụ Chiến, mấy chục năm nay, lịch sinh hoạt đó của cụ gần như không thay đổi. Trước đây cụ sống một mình, tự hái rau trong vườn nấu ăn đạm bạc, sống qua ngày. Tuy nhiên, gần 2 năm nay mấy người con sống gần đó thấy cụ đã lớn tuổi nên nấu sẵn phần cơm chay để cụ đến lấy mỗi ngày. 

Cụ Chiến cho biết: “Từ thời thanh niên tới nay tôi đều ăn chay trường nhưng chỉ ăn 1 lần trong ngày vào giữa trưa. Do chế độ ăn uống đều đặn, ngồi thiền, lòng thanh tịnh nên mới có sức khỏe”.
Dị nhân có mái tóc dài sống 1 mình trong ngôi nhà nhỏ
"Dị nhân" có mái tóc dài sống một mình trong ngôi nhà nhỏ
Minh Giang

---ooo0ooo---

THẮNG CẢNH TG 2014 (2/2)

 10 thắng cảnh hấp dẫn nhất thế giới năm 2014 (2/2)
-o0o-
Chuyên trang về du lịch Trip Advisor vừa công bố danh sách 10 điểm đến thu hút nhất trên thế giới năm 2014, dựa trên đánh giá của hàng triệu du khách.
6. Các ngôi đền cổ của Angkor Wat, Siem Reap
Siem Reap, Thành phố du lịch lớn nhất Campuchia với vô số những danh lam thắng cảnh nổi tiếng và một quần thể Angkor (tên chính thức là Công viên khảo cổ Angkor) hùng vĩ được UNESCO công nhận là di sản thế giới.
Ngôi đền Angkor Wat hùng vĩ thu hút đông khách du lịch nhất quần thể Angkor, đặc biệt là buổi chiều du khách có thể đứng trên các tầng lầu ngồi ngắm hoàng hôn buông xuống. Nằm giữa một khu rừng rậm với diện tích khiêm tốn hơn so với những ngôi đền khác khoảng 6 km2 nhưng Angkor Wat sẵn sàng làm ngỡ ngàng bất kỳ du khách nào bước chân tới bằng một vẻ đẹp kỳ bí với những nét chạm chổ tinh xảo trên cách vách tường và các pho tượng nơi đây. Ngôi đền này là nơi lưu giữ 1850 bức tượng khác nhau, mỗi bức tượng là một công trình nghệ thuật, một cách sống, một cách nhìn đời khác nhau.
7. Đền Bayon tại Siem Reap
Nằm ngay vị trí trung tâm của Angkor Thom là tháp Bayon với 216 gương mặt cười khổng lồ và đầy bí ẩn. Cho đến bây giờ cả người dân địa phương cho đến những nhà khoa học cũng chưa giải đáp nổi ý nghĩa cũng như gương mặt của các bức tượng có cười, có suy tư có buồn đau…
Bên cạnh đó đền Bayon cũng có rất nhiều những bức tranh khắc rất tinh xảo về sinh hoạt của người Khmer xưa, các đoàn quân diễu binh, các đoàn xe chở lương thực và một bức tranh trạm trổ lớn miêu tả lại một trận chiến. Ngoài những ngôi đền trên thì còn nhiều, nhiều những ngôi đền, những di tích khác mà quần thế Angkor sở hữu, mỗi ngôi đền là một kỳ tích, một tuyệt đỉnh của nghệ thuật kiến trúc Khmer và cũng là một tài sản vô giá đối với nhân loại. 
8. Nhà thờ Our Savior on Spilled Blood ở St. Petersburg, Nga
Nhà thờ Our Savior on Spilled Blood ở St. Petersburg, Nga được biết đến với nhiều tên gọi như Nhà thờ đấng cứu thế trên nền máu đổ, Thánh đường Chúa phục sinh hay Nhà thờ Chúa cứu thế.
9. Công viên quân đội quốc gia Gettysburg nằm ở Pennsylvania
Công viên quân đội quốc gia Gettysburg nằm ở Pennsylvania (Mỹ) là nơi chứng nhân cho cuộc nội chiến đẫm máu nhất trong lịch sử nước Mỹ.
10. Tòa thành bao quanh thành phố cổ Dubrovnik
Viên ngọc bích của biển Adriatic”, hay “Athens của Nam Tư” là những mỹ từ mà thế giới dành cho thành phố Dubrovnik (Croatia). Bên ngoài “hòn ngọc” đó là bức tường thành nổi tiếng thế giới, được xây dựng từ thế kỉ 12 -17 và đến nay nó vẫn được bảo tồn rất tốt.
Anh Minh

---ooo0ooo----

TÁC PHẨM BODY ART (2/3)

Những tác phẩm tuyệt tác đến từ body art (2/3)
-o0o-

Xem tiếp những tác phẩm của nghệ sĩ Johannes Sotter







---ooo0ooo---

6. AMEDEO GIANINI


Những nhà xây dựng và những nhà sáng tạo (6)
BKTT Wikipedia
-o0o-
6. Amadeo Giannini
Amadeo Pietro Giannini (1870-1949) , sinh tại San Jose, California là người sáng lập ra Ngân hàng Hoa Kỳ.
Giannini bắt đầu kinh doanh với vai trò là một người môi giới sản phẩm, thương nhân ủy thác và nhà buôn cho những nông trại ở thung lũng Santa Clara. Việc kinh doanh ban đầu này đã mang lại thành công cho ông. Sau khi kết hôn với Clorinda Cuneo, con gái ông chủ giàu có của North Beach Real Estate, ông trở thành giám đốc của Columbus Savings and Loan, công ty mà cha vợ của Giannini nắm giữ lợi tức. Thời bấy giờ, các ngân hàng hoạt động chủ yếu phục vụ cho lợi ích của nhà giàu và giới thượng lưu. Giannini đã nhận thấy cơ hội lớn khi hướng đến đối tượng là những người nhập cư. Tuy nhiên, ý kiến này của Giannini lại không được sự đồng thuận từ các nhà quản lý khác của công ty. Chính điều này đã dẫn đến sự ra đi của ông để lập ngân hàng riêng.
Ngày 17 tháng 10 năm 1904, ông thành lập Ngân hàng Ý ở San Francisco. Đây là ngân hàng mới dành cho những người nhập cư chăm chỉ, đối tượng mà các ngân hàng khác không hướng đến. Giannini đã phục vụ những khách hàng bị lãng quên này không dựa trên số tiền họ có mà dựa trên nghị lực của họ.
Bắt đầu từ con số $8,780 trong ngày đầu tiên, tiền gửi vào ngân hàng nhảy vọt lên đến $700,000 (tương đương với $13.5 triệu năm 2002). Trận động đất vào năm 1906 ở San Francisco đã san phẳng nhiều cơ sở hạ tầng của thành phố. Trước tình cảnh đó, Giannini đã lập nên một ngân hàng tạm với chức năng nhận tiền gửi, cho vay; đồng thời, ông tuyên bố rằng San Francisco  sẽ đi lên từ đống tro tàn.
BANKGIANNINI-C-23DEC99-BU-HO--Bank of America founder A. P. Giannini made construction of the Golden Gate Bridge possible by directing BofA to purchase the first issue of bonds. This portrait is from the Band of America archives ca. 1927). Photo: SFC
Năm 1916 , Giannini đã mở rộng, thành lập thêm một số chi nhánh ngân hàng khác bởi ông tin rằng đây là cách giữ vững sự ổn định cho các ngân hàng trong thời kỳ khủng hoảng đồng thời phát triển vốn huy động. Thực tế sau đó, Gianini sở hữu hơn 500 chi nhánh ngân hàng ở California.
Năm 1928 , Giannini đã có cuộc gặp gỡ với Orra E. Monnette, Chủ tịch hội đồng quản trị kiêm giám đốc Ngân hàng Hoa Kỳ, Los Angeles , nhằm xúc tiến sự hợp tác về tài chính giữa hai ngân hàng. Sau cuộc gặp gỡ này, Ngân hàng Hoa Kỳ  đã ra đời với chức chủ tịch hội đồng quản trị thuộc về Giannini (ông đã được tại nhiệm trên cương vị này đến khi nghỉ hưu).
Ngân hàng của Gianini đã chi ngân sách để khuyến khích phát triển ngành hoạt hình và rượu ở California ; năm 1937, ông cho Walt Disnay  vay để sản xuất phim Bạch Tuyết và Bảy Chú Lùn. Vào thời Đại Khủng hoảng, ông bán trái phiếu để hỗ trợ cho việc xây dựng cầu Golden Gate . Còn trong Đệ nhị thế chiến , Gianini đã chi một khoản tiền lớn cho nhà công nghiệp Henry Kaiser và các doanh nghiệp của ông ta phục vụ cho chiến tranh. Sau đó (năm 1945 ), Giannini đã cho Fiat  vay nhằm tái thiết các nhà máy bị chiến tranh tàn phá.
Ngoài ra, Giannini còn tham gia sáng lập Tập đoàn Transamerica, hoạt động theo hình thức tổng công ty. Ban đầu, Transamerica là cổ đông kiểm soát Ngân hàng Hoa Kỳ . Việc này chấm dứt sau khi đạo luật Bank Holding Company được thông qua vào năm 1956.

---oooo0ooo---

DI SẢN TG TẠI BOSNA VÀ HERZEGOVINA


DI SẢN THẾ GIỚI
1.   Tại Bosna và Herzegovina
BKTT Wikipedia
-o0o-
Khu Cầu Cổ  trong Thành phố cổ Mostar
Mostar là một thành phố và đô thị ở Bosnia và Herzegovina, thành phố lớn nhất và quan trọng nhất trong khu vực Herzegovina và trung tâm của bang Herzegovina-Neretva thuộc Liên bang. Mostar nằm hai bên dòng sông Neretva  và là thành phố lớn thứ năm của Bosna và Herzegovina. Mostar được đặt tên theo cây cầu kiểu vòm (nguyên bản: mostari), cũng là một pháo đài thời trung cổ tên là Stari Most (tức Cầu Cổ) trên sông Neretva. Cầu Cổ là một trong những địa danh nổi tiếng và dễ nhận biết nhất của thành phố.
Cầu Mehmed Paša Sokolović ở Visegrad, bắc qua sông Drinatại miền đông Bosna và Herzegovina , được xây dựng và hoàn thành năm 1577 bởi kiến trúc sư Sinan, triều đình Đế quốc Ottoman  theo lệnh của thủ tướng Mehmed Pasa Sokolovic. Cầu này đã được UNESCO  công nhận là di sản thế giới  năm 2007.
Cầu Mehmed Paša Sokolović gồm 11 vòm xây bằng vữa, mỗi vòm dài từ 11 tới 15 m, và một đường dốc tới cầu vuông góc với 4 vòm ở phía tả ngạn sông. Cầu có chiều dài tổng cộng 179,50 m, là tuyệt phẩm của kiến trúc sư Mimar Koca Sinan , một trong các kiến trúc sư và kỹ sư của thời Đế quốc Ottoman - cùng thời với kiến trúc Phục hưng của Ý . Công trình xây dựng này của Sinan có thể sánh ngang các công trình xây dựng kiểu Phục Hưng. Về tổng thể, nét cân xứng và thanh nhã của cầu này là bằng chứng về sự tuyệt vời của phong cách kiến trúc.
3 trong số 11 vòm cầu đã bi phá hỏng trong Thế chiến thứ nhất và 5 vòm khác bị hư hại trong Thế chiến thứ hai  nhưng sau đó đã được tu sửa.
Trong cuộc Chiến tranh Bosna và Herzegovina cầu này là nơi diễn ra cuộc tàn sát thô bạo dân chúng ở Višegrad năm 1992.
Cầu này ngày nay rất nổi tiếng vì tác phẩm Cầu trên sông Drinado Ivo Andric, người đoạt Giải Nobel Văn học viết.
-o0o-
2.1 Tại Bulgaria
Tu viện Rila
Tu viện Saint Ivan của Rila, được biết đến như tu viện Rila là lớn nhất và nổi tiếng nhất  ở Bulgaria. Nó nằm ở phía Tây Nam dãy núi Rila , 117 km (73 dặm) về phía nam của thủ đô Sofia ở thung lũng sâu của sông Rilska ở độ cao 1.147 m trên mực nước biển. Tu viện được đặt theo tên người sáng lập của nó, là ẩn sĩ Ivan của Rila (876-946 AD).
Được thành lập vào thế kỷ thứ 10, các tu viện Rila được coi là một trong những di tích văn hóa, lịch sử và kiến trúc quan trọng nhất của Bulgary là một điểm thu hút du lịch trọng điểm cho cả Bulgaria và Nam Âu . Trong năm 2008, đã thu hút 900.000 khách tham quan.  Các tu viện được mô tả trên các tờ tiền giấy, ban hành vào năm 1999. 
Nhà thờ Boyana
Nhà thờ Boyana ở vùng ngoại ô thủ đô Sofia, cách trung tâm thành phố 8km. Nhà thờ được biết đến như một trong những di tích được bảo quản nguyên vẹn và hoàn chỉnh nhất của nền nghệ thuật Đông Âu thời Trung cổ.

Ở ngay dưới chân núi Vitosha, chìm giữa các cây cổ thụ tán lá xanh tươi tốt, nhà thờ bao gồm ba tòa nhà. Tòa nhà nhỏ phía Đông được xây dựng vào thế kỷ thứ 10, sau đó vào đầu thế kỷ 13 theo ý nguyện của Kaloyan, người cai quản Sredets (tên của Sofia thời Trung cổ), nhà thờ cũ đã được mở rộng, xây thêm một nhà thờ hai tầng mới và cả hai đều được trang trí bên trong. Các bích họa trong nhà thờ này là một trong những bộ sưu tập quan trọng nhất các bức tranh thời Trung cổ. Quần thể này được hoàn thành khi một nhà thờ thứ ba được xây dựng vào đầu thế kỷ 19. Năm 1979, UNESCO đã công nhận nhà thờ Boyana là Di sản văn hóa thế giới.

Kỵ sĩ Madara
Kỵ sĩ Madara (là khối đá lớn khắc hình nổi từ đầu thời Trung cổ ở cao nguyên Madara , gần làng Madara, phía đông tỉnh Shumen  thuộc vùng đông bắc Bulgaria.
Hình kỵ sĩ Madara đã được 25.44% người Bulgaria bầu chọn để in trên đồng tiền euro đúc bằng kim loại tương lai của mình trong cuộc bỏ phiếu ngày 29.6.2008.
Quần thể các công trình tôn giáo được đục trong đá tại làng Ivanovo là một quần thể các nhá thờ, giáo đường, thánh đường và tu viện được đục trong đá tại làng Ivanovo, Bulgaria. Có rất nhiều bức tranh được chạm trổ trên đá. Năm 1979, UNESCO  đã công nhận quần thể các công trình tôn giáo này là di sản thế giới.

---ooo0ooo---

Chủ Nhật, 29 tháng 6, 2014

22. VUA A DỤC

Bước vào cõi Phật – Quyển 2 – Bài 22. Vua A Dục
Cố Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú
-o0o-
22. VUA  A-DỤC
1.  Nói đến Ấn-Độ là nói đến một nước rất lớn, lớn đến nỗi sách vở gọi là một “tiểu lục địa”. Nước Ấn Độ rộng 3.268.000 km2 (gấp 10 lần Việt Nam). Dân số là 1.100 triệu (gấp 13 lần Việt Nam). Có rất nhiều tiếng địa phương, nhưng ngôn ngữ chính thức là tiếng hindi. Hiện nay, tôn giáo chính là Ấn-Độ giáo.
Lịch sử Ấn-Độ là một lịch sử lâu dài, nền văn minh lưu vực Ấn Hà hiện hữu từ 25 thế kỷ trước Tây lịch (tr.TL). Ấn Hà tức là sông Indus.
Trong khoảng thời gian 560-480 tr.TL, sự kiện nổi bật nhất là giáo chủ Mahāvīra của đạo Kỳ-Na (Jainisme) và giáo chủ Thích-Ca Mâu-Ni của đạo Phật ra đời truyền đạo. Sở dĩ người ta nhắc đến hai vị giáo chủ vì hai đạo chủ trương bình đẳng trong một xã hội phân chia giai cấp rất nặng nề.
Vào khoảng thời gian 320-176 tr.TL, triều đại Mô-Ri-A (Maurya, ta gọi là Khổng Tước) được thiết lập ở xứ Ma-Kiệt-Đà (Magadha). Người sáng lập ra vương triều này là vua Candragupta. Ông chinh phục hết các nước nhỏ yếu xung quanh và là người đầu tiên thống nhất được nước Ấn-Độ. Ông truyền ngôi cho con là Bindusara, ông này ngự trị trên một vùng lãnh thổ mênh mông do cha truyền lại và tiếp tục chính sách của cha. Ông có rất nhiều vợ (16 bà!) và cả trăm người con (101 người!), một trong các người con đó là A-Dục (khoảng 300-232 trước Tây Lịch). A-Dục hay A-Du-Ca là do chữ Asoka - còn viết là Ashoka -  phiên âm ra. A-Dục có nghĩa là vô ưu, thoát khỏi sầu não. 
2.  Theo Từ Điển Phật học Hán Việt thì: Lúc nhỏ, A Dục tàn bạo lắm nên vua cha không ưa và muốn chọn người anh là Tu-Tư-Ma  để truyền ngôi. Nhân có nước nhỏ Đức-Xoa-Thi-La nổi loạn, vua sai A-Dục đi bình định mà chỉ cấp cho rất ít khí giới với mục đích cho A-Dục chết trận. Nào ngờ, A-Dục thành công và cầm quyền nơi xa đó; làm phó vương miền Điểu-Xà-Diễn-Ma, lo thu thuế. Khi nghe tin vua cha bệnh nặng, A-Dục vội vàng về kinh đô chuẩn bị lên nối ngôi. Trong việc “nối ngôi” này, có những điều mờ ám, thí dụ như việc tất cả các anh em của A- Dục đều bị giết, kể cả Tu-Tư-Ma, trừ một người tên là Tì-Đại-Du-Ca sau tu thành la-hán.
Từ Điển nói trên ghi thêm một thuyết khác: “Ông đánh úp và giết chết Tu-Tư-Ma, tự lên ngôi vua. Chỉ trong vòng bốn năm, ông trừ khử người em cùng mẹ là Để-Tu, giết 99 người anh em khác mẹ, rồi lên ngôi vua, đó là khoảng 280 năm sau khi đức Phật nhập Niết-bàn”. Việc này cần phải tìm tòi thêm vì người ta nói rằng trên một cột đá, ông có nhắc đến anh em của ông.
Vua A-Dục sinh năm 304 tr.TL, lên ngôi năm 269 tr.TL lúc 35 tuổi, trị vì được 38 năm và mất năm 232 tr.TL, thọ 73 tuổi. Thật ra, năm lên ngôi cũng như năm đăng quang của vua A-Dục không được chính xác lắm. Nơi thì ghi là vua lên ngôi năm 270 tr.TL, nơi khác ghi là 265. Sách này ghi rằng vua băng hà năm 230 tr.TL, sách khác lại ghi là 232 hoặc 238. Lễ đăng quang cử hành 4 năm sau khi vua lên ngôi.
Phật học Từ Điển của Đoàn Trung Còn ghi: “Chép theo những sự khảo cứu trên những cột đá do vua dựng lên trong xứ thì vua lên ngôi năm 273 tr.TL. Vua đóng đô tại thành Hoa Thị”.
Vua A-Dục được xem là ông vua vĩ đại nhất của nước Ấn-Độ. Mới lên ngôi, vua dùng vũ lực mở mang bờ cõi, vương quốc trải rộng từ Afghanistan đến Bengal, bao gồm luôn đồng bằng sông Hằng. Tuy nhiên, trong một trận xâm chiến nước Kalinga tại bờ biển phía Đông vào năm 262 tr.TL, quân sĩ và dân chúng chết quá nhiều, kẻ còn lại thì cực kỳ lầm than. Kalinga là tiểu bang Orissa của Ấn Độ ngày nay. Một tài liệu ghi: một trăm ngàn người bị giết, năm chục ngàn người bị bắt làm tù binh và một số nhiều hơn thế chết thảm. Nhà vua động lòng thương cảm và tỏ ra hối hận vì đã gây nên binh đao và khổ đau, chết chóc. Khi vua gặp được cháu mình là tu sĩ trẻ tuổi Ni-Cù-Đà thì ông này đem Phật pháp giáo hóa cho thì vua tỉnh ngộ, có một sự biến chuyển về tâm linh và  vua quy y Tam Bảo vào năm 261 tr.TL. Điều này thì có người đặt chấm hỏi. Một tài liệu khác mang tính kỳ bí hơn: Nhà vua thấy một tỳ-khưu thi triển thần thông làm cho nước sông Hằng chảy ngược nên ngưỡng mộ Phật pháp!
Không những bản thân thực hành Phật pháp mà nhà vua còn áp dụng Phật pháp trong việc trị vì đất nước. Ngưng hẳn việc dùng vũ lực chiếm đóng đất đai, nhà vua dùng mọi phương tiện để đào giếng, làm đường, xây trường học và nhà thương, trồng dược thảo, phát thuốc v.v... cho dân, nhà vua gọi đó là “chinh phục bằng giáo pháp”. Lại gửi các quan đi khắp nơi để khuyên bảo dân chúng ăn ở hiền lành, thực hành Phật pháp.
3.  Về việc hoằng pháp, người ta kể rằng khi được nghe nói rằng đức Phật thuyết 84 ngàn pháp, nhà vua đã cho xây cất rất nhiều chùa, tháp, con số lên tới 84 ngàn! Những tháp này có tên là stupa, phiên âm thành phù đồ (dù xây chín đợt phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người). Nhiều tảng đá và cột đá được dựng lên khắp nước để đề cao các giá trị Phật giáo. Thí dụ “làm lành, tránh dữ, sống từ bi, trong sạch”. Lại cho in kinh sách để cho sư sãi đọc tụng và để cho dân chúng theo đó mà tu tập.
Nhưng cũng nên nói rằng nội dung các tảng và cột đá đó (gọi chung là các sắc chỉ trên đá, rock edicts) không phải chỉ nói về Phật pháp mà còn nói đến sự nghiệp nhà vua cùng những lời khuyên răn về đạo đức, về lòng hiếu thảo, từ bi, sự tương kính giữa các tôn giáo v.v... Có một vài nhà khảo cứu nhận xét rằng: không thấy tảng đá hay cột đá nào khắc Tứ Diệu Đế cả! Và ngay cả chữ Pháp (Dhamma) dùng lúc ấy có hẳn là Phật pháp chăng? Có thể rằng ông vua khôn ngoan đó tránh va chạm người ngoại đạo trên lãnh thổ mênh mông của ông! Chưa thể đoan chắc được.
P0213.JPG (44200 bytes)
Đầu trụ cột đá Vua A-Dục được làm bằng
một khối đá lớn, khắc bốn đầu sư tử ở bốn mặt,

đặt trên pháp luân, đây cũng là quốc ấn của triều đại của Vua A-Dục
Các nhà nghiên cứu thường ghi ra những câu sau này trên một cột đá, cốt nói lên lòng khoan dung rất đáng ca ngợi của vua A-Dục: “Không được vinh danh riêng tôn giáo của mình và dè bỉu tôn giáo của người khác, phải vinh danh các tôn giáo khác vì lý do này hay lý do khác. Làm như vậy là giúp cho tôn giáo của mình phát triển đồng thời giúp cho các tôn giáo khác. Nếu làm khác thì chỉ là đào hố chôn tôn giáo của mình và làm hại các tôn giáo khác … Hòa hợp là điều tốt lành: tất cả chúng ta đều phải lắng nghe và muốn lắng nghe các chủ thuyết mà tha nhân rao giảng”.
Ở một cột khác, người ta thấy:“Trước đây, ở các nhà bếp trong cung, mỗi ngày có hàng trăm ngàn sinh vật bị giết thịt. Nhưng nay, khi viết những dòng chữ này về Giáo Pháp, chỉ còn ba con vật bị hạ thôi, hai con công và một con nai, và về sau thì sẽ không hạ con nào nữa”.
Và: “Bất cứ nơi nào trên vương quốc của ta, các hàng quan lại cứ năm năm thì phải đi kinh lý một lần để dạy Giáo pháp cho dân và dạy nhiều điều khác nữa. Vâng lời cha mẹ, bạn bè và bà con, cúng dàng các bậc bà-la-môn và sa-môn, không sát sinh là những điều tốt. Tiêu xài ít đã là tốt, mà sở hữu  tài sản tối thiểu cũng là tốt …”.
Người ta đã liệt kê được những sắc chỉ trên đá: 16 tảng đá lớn, 4 tảng đá nhỏ, 4 tảng đá nhỏ nói riêng về Phật giáo và 7 cột đá, vậy là tổng cộng có 31 tảng và cột, có thể sau này còn tìm được thêm.

4.  Năm 273 tr. TL., trong các chuyến hành hương đến các thánh địa Phật giáo, vua A-Dục đã đến viếng Lâm-Tì-Ni, để thành kính đảnh lễ nơi đản sanh đức Thích-Ca Mâu-Ni. Để đánh dấu việc này, nhà vua cho dựng nơi ấy một cột đá trên có khắc chữ đại ý nói rằng: “Hai mươi năm sau khi đăng quang, Nhà Vua đã đến hành hương nơi này là nơi đản sanh đức Phật. Làng Lâm-Tì-Ni được miễn thuế má, chỉ phải đóng một phần tám số lợi tức về đất đai thay vì đóng đày đủ như thường lệ”.
Khi quân Hồi xâm chiếm Ấn-Độ vào thế kỷ 13 sau TL thì họ tàn phá các chùa chiền, thánh tích Phật giáo. Lâm-Tì-Ni bị bỏ hoang phế, rừng cây che lấp hết. Năm 1896, nhà khảo cổ học người Đức là TS Alois A. Fuhrer tới Nê-Pan tìm tòi thì phát hiện được một cột đá với những chi tiết xác nhận rõ ràng nơi ấy chính thực là nơi đản sinh đức Phật.
Năm 259 tr. TL., vua A-Dục hành hương đến Bồ-đề Đạo tràng, Trên một cái bệ đắp nổi thấp (bas-relief ) tại tháp Bharhut ở Madhya Pradesh, người ta thấy hình đắp ghi lại đền và các tòa nhà khác tại Bồ-đề Đạo tràng mà vua A-Dục đã cho xây dựng.
Năm 249 sau đó, vua A-Dục hành hương đến Sārnāth là nơi đức Phật khởi đầu chuyển pháp luân, thuyết Tứ Diệu Đế cho nhóm năm anh em ông Kiều-Trần-Như. Nhà vua đã cho dựng nhiều công trình để kỷ niệm chuyến hành hương này, đặc biệt là cho dựng cột đá nổi tiếng gọi là Sārnāth Lion Capital (= Đầu cột đá có tượng Sư Tử tại đô thị Sārnāth), trên đầu cột đó có tạc bốn con sư tử quay lưng vào nhau, bốn con nhìn ra bốn phương. Bệ của tượng sư tử này là một hình trụ đá, có khắc nổi hình bánh xe pháp. Hình bánh xe được dùng trên lá quốc kỳ hiện nay của Ấn-Độ. Còn Sārnāth Lion Capital thì được dùng làm quốc huy hiện nay của Ấn Độ. Du khách thời nay muốn coi tượng Sư Tử này phải tới Viện Bảo Tàng Sārnāth.
Cũng vào năm 249 ấy, nhà vua hành hương đến Câu-Thi-Na là nơi đức Phật đại bát-niết-bàn và cho dựng tại đó nhiều cột đá.
Như vậy là tất cả tứ động tâm (nơi đản sinh, nơi thành đạo, nơi khởi chuyển pháp luân và nơi đại bát-niết-bàn của đức Phật) đều được nhà vua tới chiêm ngưỡng và dựng cột đá đánh dấu kỷ niệm. Phật tử từ xưa đến nay đều nô nức theo vết chân quý hóa ấy.
5.  Sự nghiệp đáng kể nhất của vua A-Dục là đề xuất và tài trợ tổ chức Hội Kết Tập thứ ba của Phật giáo tại thành Hoa Thị, mục đích là thanh lọc Giáo Hội, loại trừ những tu sĩ giả hiệu và những tà thuyết. Tại sao có việc này?
Khi nối ngôi của ông nội và cha thì vua A-Dục vẫn theo đường lối của các vị ấy là nâng đỡ Tam Bảo và luôn cả các môn phái của những tôn giáo khác. Sau khi hối hận về các việc ác đã phạm và được cảm hóa theo Phật pháp thì nhà vua không còn chú ý nhiều đến các nhóm khác mà chỉ chủ yếu yểm trợ Phật giáo mà thôi và yểm trợ một cách hào phóng ngoài sự tưởng tượng. Thí dụ như nhà vua ban phát tứ sự cho các nhà xuất gia một cách hết sức rộng rãi, rộng rãi đến nỗi nhiều kẻ lười biếng lợi dụng, len lỏi vào hàng ngũ tu sĩ để mong hưởng lợi, đắp y mà chẳng theo một quy tắc nào, đồng thời do ngu dốt hay do xúi dục mà mang vào Giáo Hội những tà thuyết như là sự trường tồn của linh hồn chẳng hạn.
Khi nhận thấy uy tín của Giáo Hội xuống thấp, nhiều vị tăng đứng đắn từ chối dự lễ bố-tát với các tu sĩ giả hiệu. Nhà vua nghe thấy vậy, bèn cho một vị thượng quan đi thu xếp thống nhất Tăng-già, nhưng mà lệnh không rõ ràng nên khi vị quan này thấy các nhà sư đứng đắn nhất định không ngồi chung với các nhà sư giả hiệu thì ông nổi giận, tuốt kiếm chém đầu luôn hết người này đến người khác. Đến khi trông thấy sư Tỳ-Đại-Du-Ca thì quan ngạc nhiên, dừng tay lại. Tại sao? Vì Tỳ-Đại-Du-Ca là em ruột của nhà vua. Vị quan vội về tâu vua, vua bèn vời trưởng lão Mục-Kiền-Liên-Tử Đế-Tu đến để hỏi ý kiến, bàn bạc kế hoạch. Từ đó phát xuất việc triệu thỉnh một ngàn vị tăng về tham dự một Hội Kết Tập do trưởng lão Mục-Kiền-Liên-Tử chủ trì và nhà vua bảo trợ, nhằm mục đích loại bỏ các tăng giả hiệu và mọi tà thuyết. Đây là Hội Kết Tập lần thứ ba của Phật giáo, tổ chức vào năm 326 tr.TL, tại Asokārāma, thuộc thành Hoa Thị. Hội Kiết Tập kéo dài 9 tháng, với việc đọc tụng và duyệt lại Kinh tạng và Luật tạng. Để bảo vệ tính trung thực của Giáo pháp, đích thân trưởng lão đã soạn thảo một cuốn sách tên là Kathavatthu, đả phá các tà thuyết, gồm 23 chương, về sau cuốn sách này được thêm vào thành quyển thứ năm trong số bảy quyển của Vi Diệu Pháp.
Một trong các hệ quả của hội Kết Tập này là việc vua A-Dục cử các phái đoàn đi truyền bá Phật pháp khắp nơi trên đế quốc rộng lớn của ngài.
Đặc biệt nhất là phái đoàn sang nước Sư Tử tức là nước Tích Lan, Sri Lanka ngày nay, trong đó có hoàng tử Ma-Hê-Đà và công chúa Tăng-Già-Mật (con của nhà vua), là những người đã gia nhập Tăng-già từ lâu. Nơi đây, một nhánh cây bồ-đề được mang từ Bồ-đề Đạo tràng sang trồng, cây này nay vẫn còn! Phật giáo được quảng bá nhanh chóng và rộng rãi, được nhận là quốc giáo. Chùa chiền, bảo tháp được tân tạo rất nhiều.
Hội Kết Tập thứ tư được tổ chức tại Tambapanni, Tích Lan, vào năm 29 tr.TL, do quốc vương Vattagami bảo trợ. Vì ngại rằng lâu ngày, kinh điển sẽ bị quên lãng từng phần, nên trưởng lão Maharakkhita cùng 500 chư tăng tụng lại toàn bộ Tam Tạng, nhờ thế mà kinh điển được điển chế đầy đủ và đặc biệt là được ghi lên lá bối bằng chữ pali của Tích Lan.
Cho đến nay, bộ kinh điển này còn được lưu trữ nguyên vẹn và tất cả đã được Pali Text Society dịch sang tiếng Anh trong một thời gian kéo dài cả trăm năm. Phật giáo Tích Lan, với Tam Tạng đó, được gọi là Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravāda).
6.  Một ông vua từ tàn ác trở thành nhân từ, từ ông ác trở thành ông thiện, từ một nhà vua đầy quyền uy trở thành một Phật tử thuần thành, sống theo chánh pháp, làm việc theo chánh pháp, cho con trai, con gái, em xuất gia, cai trị muôn dân với lòng nhân ái từ bi, chinh phục lòng người bằng đạo pháp, đem ánh sáng của Phật giáo trải khắp các nước xung quanh, hỗ trợ Hội Kiết Tập Pháp lần thứ ba để bảo vệ Giáo pháp và chỉnh đốn Tăng già, rõ ràng vua A-Dục là một vị đại đế xứng đáng với lòng tôn kính của mọi Phật tử và của mọi người. □
Phái đoàn Phật giáo Việt Nam dưới cột đá Vua A Dục
PHỤ  LỤC. 
Trên một cột đá, có ghi chỉ dụ sau đây nói về sự rạn nứt trong tăng đoàn, đã được dịch ra tiếng Anh. Trong cuốn sách Vườn Nai, Chiếc Nôi Phật Giáo của Ni cô Thích Nữ Giới Hương, Tủ Sách Bảo Anh Lạc, Chhatra Marg, Delhi-7, India, 2005, chúng ta thấy bản dịch ra tiếng Việt của cô. Cô có ghi bản dịch của HT Thích Minh Châu, đã in trong cuốn Hành Hương Xứ Phật, khác khá nhiều. Chúng tôi xin trích in vào đây để rút ra một kinh nghiệm chung: có thể tin các tài liệu đến đâu?
---ooo0ooo---



MICHAEL JACKSON (2)

10 bài hát nổi tiếng của Michael Jackson (2)
-o0o-
5 năm kể từ khi ra đi mãi mãi vào ngày 25/6/2009, những ca khúc bất hủ cùng điệu nhảy Moonwalk của Vua nhạc Pop vẫn sống mãi trong tâm trí người hâm mộ.

02-Thriller-1983-6224-1403630909.jpg

2. Thriller.. MV rùng rợn ra mắt năm 1983 được sách kỷ lục Guinness công nhận là video clip thành công nhất mọi thời đại.
-o0o-

Xem Video : Michael Jackson - Thriller

https://www.youtube.com/watch?v=sOnqjkJTMaA&feature=kp

---ooo0ooo---





10 THẮNG CẢNH (1/2)

10 thắng cảnh hấp dẫn nhất thế giới năm 2014 (1/2)
-o0o-
Chuyên trang về du lịch Trip Advisor vừa công bố danh sách 10 điểm đến thu hút nhất trên thế giới năm 2014, dựa trên đánh giá của hàng triệu du khách.
1.   Machu Picchu
Machu Picchu là một khu tàn tích Inca thời tiền Columbo  trong tình trạng bảo tồn tốt ở độ cao 2.430 m trên một quả núi có chóp nhọn.
Machu Picchu nằm trên thung lũng Urubamba tại Peru, khoảng 70 km phía tây bắc Cusco . Bị thế giới bên ngoài quên lãng từ nhiều thế kỷ, dù người dân địa phương vẫn biết tới nó, Machu Picchu đã trở lại thành sự chú ý của thế giới nhờ công nhà khảo cổ học Hram Bingham người đã tái khám phá nơi này năm 1911, và viết một cuốn sách bán rất chạy về nó.
Peru hiện đang thực hiện các hoạt động pháp lý nhằm đòi lại hàng ngàn đồ vật Bingham đã lấy đi khỏi nơi này
2.   Nhà thờ Hồi giáo Sheikh Zayed tại Abu Dhabi
Nhà thờ Hồi giáo Sheikh Zayed là một nhà thờ Hồi giáo ở Abu Dhabi, thủ đô các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất. 
Nhà thờ này có 82 mái vòm, cao nhất tới 85m, 4 ngọn tháp cao 107m, với giá trị khoảng 2 tỉ dirham (545 triệu USD ), được coi là chìa khóa cho sự thờ phụng chung trên cả đất nước này. Trong nhà thờ có tấm thảm len rộng gần 6.000m2 trong phòng cầu nguyện chính được coi là lớn nhất thế giới, thiết kế bởi nghệ sĩ Iran Ali Khaliqi, do 1.200-1.300 thợ dệt Iran thực hiện với 2.268.000.000 nút thắt, trong khoảng thời gian 2 năm mới có thể hoàn thành.
Nhà thờg này có thể chứa tới 40.000 tín đồ, đủ tinh tế bởi hàng cột 96 chiếc được chạm khảm, đủ thiêng liêng bởi 99 tên gọi/danh xưng khác nhau của Thánh Allah được khắc - mạ vàng trên tường thánh đường.
3.   Taj Mahal
Tāj Mahal là một lăng mộ  nằm tại Agra, Ấn Độ. Hoàng đế Mogon Shah Jahan (gốc Ba Tư), lên ngôi năm 1627, đã ra lệnh xây nó cho người vợ yêu dấu của mình là Mumtaz Mahal.
Công việc xây dựng bắt đầu năm 1632 và hoàn thành năm 1648. Một số tranh cãi xung quanh câu hỏi ai là người thiết kế Taj Mahal; rõ ràng một đội các nhà thiết kế và thợ thủ công đã chịu trách nhiệm thiết kế công trình và Ustad Ahmad Lahauri  được coi là kiến trúc sư chính.
Taj Mahal nói chung được coi là hình mẫu tuyệt vời nhất của kiến trúc Mogon , một phong cách tổng hợp các yếu tố của các phong cách kiến trúc Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ và Hồi giáo.  Tuy phần mái vòm bằng đá cẩm thạch  trắng của lăng là phần nổi bật nhất, thực tế Taj Mahal là một tổng hợp các phong cách kiến trúc. Nó được được liệt vào danh sách các Địa điểm Di sản thế giới của UNESCO năm 1983 và được miêu tả là một "kiệt tác được cả thế giới chiêm ngưỡng trong số các di sản thế giớ”i.
4.   Great Cathedral and Mosque, Cordoba, Tây Ban Nha
Great Cathedral and MosqueTây Ban Nha (Trước đây là Excmo. Cabildo Catedralicio de Córdoba)
Được xếp hạng No 1 trong số 100 điểm du lịch tại Cordoba
5.   Vương cung thánh đường St. Peter, Vatican
Vương cung thánh đường Thánh Phêrô là một trong bốn nhà thờ  lớn nhất ở Vatican . Tên đầy đủ của công trình này là Vương cung Thánh đường Tông Tòa Thánh Phêrô, nhưng đôi khi được gọi tắt là Đền thờ Thánh Phêrô hoặc Nhà thờ Thánh Phêrô).
Mặc dù không phải là nhà thờ "mẹ" của Giáo hội Công giáo Roma, cũng không phải là nhà thờ chính tòa của vị giám mục Roma nhưng vương cung Thánh đường Thánh Phêrô được coi là một trong các nơi linh thiêng nhất của đạo Công giáo.
Trong nhiều trường hợp, hình ảnh mặt tiền của nó và quảng trường  là đại diện cho Giáo hội Công giáo Rôma và Thành Vatican.

---ooo0ooo---