CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM (7)
Sưu tầm
---o0o---
7 – Người Chứt
Người Chứt, còn gọi là người
Rục, người Sách, người A rem, người Mày, người Mã liềng,
người Tu vang, người Pa leng, người Xe lang, người Tơ
hung, người Cha cú, người Tắc cực, người U mo, người Xá lá
vàng, là một dân tộc ít người sinh sống tại Lào và Việt Nam.
Địa bàn cư trú
Tại Việt Nam, theo số liệu tổng điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 1999
thì dân tộc này có dân số khoảng 3.829 người, sống chủ yếu ở tại Minh Hóa,
Tuyên Hóa, Bố Trạch (Quảng Bình); một số ở Hương Khê (Hà Tĩnh) và tại Đăk Lăk.
Thực tế, 7 tên gọi Sách, Mày, Rục, Mã Liềng, Arem, Xơ-lang, Umo dùng để chỉ 7
nhóm trong tộc người này. Nhóm người Rục được phát hiện muộn nhất (năm 1959) ở
xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa và đến năm 2004 có 85 hộ với 428 nhân khẩu. Nhưng
theo ước tính của Tổng cục Thống kê ngày 1 tháng 7 năm 2003 thì dân số người
Chứt giảm xuống còn 3.787 người.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Chứt ở Việt Nam có
dân số 6.022 người, cư trú tại 23 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Chứt
cư trú tập trung tại các tỉnh: Quảng Bình (5.095 người, chiếm 84,6% tổng số
người Chứt tại Việt Nam),
Đăk Lăk (435 người), Lâm Đồng (266 người), Hà Tĩnh (156 người).
Tại Lào, theo ước tính của Ethnologue thì có khoảng 450 người Chứt sinh
sống tại tỉnh Khammouan.
Người Chứt là tộc người sử dụng ngôn ngữ cùng ngữ hệ với tiếng Việt.
Tiếng Chứt được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm vì gần gũi với tiếng Kinh
nguyên thủy. Giáo sư Trần Trí Dõi đã nhận xét tiếng Chứt như "bảo tàng lưu
giữ các giai đoạn phát triển của tiếng Việt". Văn hóa của người Chứt cũng
cho phép tìm lại lịch sử phát triển của người Việt cổ.
Người Chứt sống chủ yếu bằng trồng trọt và một phần nhờ săn bắn và hái
lượm. Họ ăn cơm đồ cách thủy với thức ăn thường có rau rừng thái nhỏ nấu với ốc
hay cá suối.
Nhóm người Rục
Tộc người Rục được một tiểu đội Công an Quảng Bình phát hiện vào ngày 12
tháng 8 năm 1959 trong hang sâu tại vùng hang động Phong Nha – Kẻ Bàng thuộc xã
Thượng Hóa huyện Minh Hóa (Quảng Bình) gồm 11 hộ với 34 người.
Người Rục có tập quán rất lạc hậu, quen ở hang sâu, săn bắt, hái lượm,
nhưng họ cũng có một cuộc sống tinh thần phong phú với những nhạc cụ núi rừng
như đàn trơ bon, đàn môi, sáo dọc và làn điệu cà lưm cà lềnh. Do tập quán lạc
hậu, sống trong hang đá, săn bắt, hái lượm tận rừng sâu, người Rục có nguy cơ
suy giảm dân số hết sức nghiêm trọng.
Trong hơn 40 năm, người Rục đã làm một cuộc hành trình về với cộng đồng.
Đến cuối năm 2006, nhân khẩu đã lên đến 414 người và được phân bố trong bốn bản
Phú Minh, Ón, Yên Hợp và Mò O - Ồ Ồ thuộc xã Thượng Hóa, ở xen với các tộc như
Sách, Mày, Kinh. Số liệu năm 2009 số lượng nhân khẩu có khoảng 600 người.
Lịch sử
Trước đây, người Chứt sống di cư, chủ yếu vùng núi tỉnh Quảng Bình và Hà
Tĩnh, trong điều kiện rất lạc hậu. A. Cheon và Th. Guignard, hai nhà nghiên cứu
người Pháp, đã miêu tả là người Chứt "hết sức nhút nhát, hễ thấy người lạ
thì lập tức lẩn trốn. Họ không có quần áo, nam nữ đều che mình bằng vỏ cây sui,
ngủ chung lẫn lộn trong hang hoặc trong lều. Họ ăn bột cây nhúc và săn bắt tôm
cá, thú nhỏ trong rừng. Cả nam và nữ đều búi tóc đằng sau". Có nguồn cho
biết nhóm Rục thời trước có nguồn thức ăn quan trọng là bọt cây báng và thịt
khỉ.
Dưới thời thực dân Pháp, người Chứt bị miệt thị là "Xá lá
vàng". "Xá" chỉ những tộc người lạc hậu; "lá vàng" chỉ
cuộc sống di cư, người Chứt thường chỉ sống tại một địa điểm trong những túp
lều lợp bằng lá cây khoảng vài ngày cho đến khi lá chuyển sang màu vàng thì bỏ
đi nơi khác. Bản thân chữ "Chứt" cũng được hiểu là hang đá, nơi trú
ngụ của người Chứt. Với trình độ sản xuất thấp, người Chứt không biết dệt vải.
Vào mùa hè nam giới Chứt đóng khố và cởi trần còn phụ nữ Chứt mặc váy. Mùa đông,
họ mặc áo làm bằng vỏ cây.
Khi Việt Nam giành
độc lập từ Pháp, người Chứt được chính quyền Việt Nam vận động về sống định cư, hòa
đồng hơn vào các tộc người khác.
Ngày nay người Chứt đã sống định canh định cư, nhưng các làng của người
Chứt (gọi là Cà Vên) thường tản mạn và nhà cửa không bền vững. Họ sống
nhờ trồng trọt (nhóm Sách làm ruộng, còn nhóm Rục và A rem là làm rẫy), canh
tác lúa, đậu, lạc, trầu không. Khi đến mùa thu hoạch, họ vẫn lên ở các hang núi
gần nương rẫy, chỉ trở lại bản làng khi mùa màng xong xuôi. Người Chứt cũng hái
lượm, săn bắt, đánh cá, chăn nuôi. Nghề mộc và đan lát khá phổ biến trong các
tộc người Chứt. Các đồ dùng bằng kim loại và vải vóc, y phục phải mua hoặc trao
do người Chứt không trồng bông dệt vải hay chế tạo đồ kim loại.
Người Chứt ngày nay thường nhận mình là họ Cao, họ Đinh... Mỗi dòng họ
đều có người tộc trưởng, có bàn thờ tổ tiên chung. Trong làng người Chứt, tộc
trưởng nào có uy tín lớn hơn thì được suy tôn làm trưởng làng.
Văn hóa
Người Chứt có quan hệ vợ chồng bền vững. Lễ cưới được tổ chức bên nhà
gái trước lễ đón dâu. Lễ vật trong đám cưới ngoài lợn, à, luôn phải có thịt khỉ
sấy khô.
Việc ma chay của người Chứt đơn giản, nhóm Sách có tiếp thu ảnh hưởng
của người Kinh. Tang gia được tổ chức trong 2 đến 3 ngày bằng nghi lễ cúng bái,
rồi đưa người chết đi chôn. Mộ được đắt thành nấm đất, không có nhà mồ bên
trên. Sau 3 ngày, tộc trưởng làm lễ gọi hồn cho người chết về ngụ tại bàn thờ
tổ tiên ở nhà tộc trưởng, từ đó người thân không chăm sóc mộ nữa.
Ngoài, thờ cúng tổ tiên, người Chứt tin có ma rừng, ma suối, ma không
trung, ma bếp... Trong tín ngưỡng của người Chứt cũng có Thần nông bảo vệ mùa
màng và là vị thần tối cao. Hoạt động nông nghiệp thường được thực hiện kèm
theo các nghi lễ như lễ xuống giống, lễ sau gieo hạt, lễ cúng hồn lúa, lễ ăn
mừng được mùa.
Người Chứt có làn điệu dân ca Kà-tưm, Kà-lềnh. Nhạc cụ có khèn bè, đàn
ống lồ ô loại cho nam và loại cho nữ, sáo 6 lỗ... Dân tộc Chứt có vốn truyện cổ
và văn nghệ dân gian phong phú, gồm nhiều đề tài khác nhau.
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét