Bạn Phan Lục (Chicago) sưu tầm
THÔNG TIN Y HỌC VỀ VITAMIN B
Lynn Ly tổng hợp thông
tin về thông tin về Vitamin B
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
---o0o---
VITAMINE B TRƯỚC KHI THAI
NGHÉN
Phải chăng vitamine B
là thiết yếu cho thai nhi ngay cả trước khi thụ thai?
Đó là điều vừa được tiết lộ bởi một công trình nghiên cứu được công bố tuần này trong Annales de L’Académie Américaine des Sciences. Các nhà khoa học của Đại học Nottingham đã thực hiện công trình nghiên cứu này trên cừu. Một khi trưởng thành, các cừu con có cừu mẹ thiếu vitamine B trước khi thụ thai tỏ ra “ bự “ hơn và có huyết áp cao hơn huyết áp của các cừu con có cừu mẹ có chế độ ăn uống bình thường (có vitamine B). Sự thiếu vitamine B nơi người mẹ là nguồn gốc của những biến đổi ở ADN của đứa con.
Đó là điều vừa được tiết lộ bởi một công trình nghiên cứu được công bố tuần này trong Annales de L’Académie Américaine des Sciences. Các nhà khoa học của Đại học Nottingham đã thực hiện công trình nghiên cứu này trên cừu. Một khi trưởng thành, các cừu con có cừu mẹ thiếu vitamine B trước khi thụ thai tỏ ra “ bự “ hơn và có huyết áp cao hơn huyết áp của các cừu con có cừu mẹ có chế độ ăn uống bình thường (có vitamine B). Sự thiếu vitamine B nơi người mẹ là nguồn gốc của những biến đổi ở ADN của đứa con.
VITAMINE B 12 TỐT CHỐNG
LẠI SỰ LÃO HÓA
Một công trình nghiên
cứu của đại học Oxford, được tiến hành nơi 107 người từ 61 đến 87 tuổi, đã cho
thấy rằng những người có nồng độ vitamine B12 cao nhất, có thương tổn liên quan
với sự lão hóa (teo não bộ) 6 lần thấp hơn. Theo G.S Anna Vogiatzoglou, một chế
độ ăn uống giàu cá, thịt, ngũ cốc và sữa hẳn phải đủ để gia tăng nồng độ
vitamine B12 của họ.
VITAMIN B CÓ THỂ LÀM HẠ
THẤP NGUY CƠ BỊ BỆNH MẮT
Cho vitamin B bổ sung
có thể làm giảm nguy cơ bị bệnh thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (age-related
macular degeneration), ít nhất nơi các phụ nữ bị bệnh tim mạch hay có nguy cơ
bị bệnh này. Thoái hóa điểm vàng, một bệnh phá hủy vùng trung tâm của võng mạc,
là nguyên nhân dẫn đầu của sự mất thị giác nghiêm trọng nơi những người trên 50
tuổi.
Trong một công trình
nghiên cứu, được công bố ngày 23/2 trong The Archive of Internal Medicine
American, các nhà nghiên cứu đã theo dõi 5.205 người phụ nữ hoạt động trong
ngành y tế, có bệnh tim mạch hay 3 hoặc nhiều hơn các yếu tố nguy cơ tim mạch.
Các phụ nữ này được chia thành hai nhóm : nhóm nhận một placebo và một nhóm
nhận một phối hợp acide folique và các vitamine B6 và B12. Sau một thời gian
theo dõi trung bình 7,3 năm, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy rằng những phụ nữ
uống vitamin B có nguy cơ bị thoái hóa điểm vàng mức độ quan trọng được thu
giảm. Điều này có thể là do các vitamins B làm giảm nồng độ homocysteine (một
acide aminé) trong máu ; chất này có can dự trong sự mất thị giác.
Những tác giả lãnh đạo
công trình, B.S William G.Christen, một phó giáo sư y khoa của Havard, đã từ
chối khuyến nghị sử dụng vitamin B. Ông nói cần phải có những công trình nghiên
cứu khác nữa.
MỘT GÁO NƯỚC LẠNH ĐỐI VỚI
VITAMINE B9 (ACID FOLIQUE).
Acide folique vẫn rất quý để chống lại các dị dạng của thai nhi. Nhưng sự sử
dụng mạnh đặt vấn đề.
Vitamine B9 rất quý
trong vài trường hợp, nhưng quá nhiều vitamine này có thể làm gia tăng nguy cơ
bị ung thư.
Vitamine B9 hay acide
folique có tên phát xuất từ những nguồn đầu tiên được nhận diện : các lá
(folium) thực vật xanh. Epinard, chou vert, rau diếp (laitue)... giàu acide
folique, cũng như cam quýt (agrumes) và các ngũ cốc hoàn toàn (céréales
complètes). Mặc dầu chúng có những chức năng khác nhau, nhưng có một chức năng
nổi trội hơn hết : khả năng của acide folique làm giảm nguy cơ bị vài dị dạng
bẩm sinh.
Miễn là vitamine B9
được tiêu thụ với lượng đầy đủ và, nhất là đúng lúc, nghĩa là vào ngay lúc thụ
thai.Thật vậy, chính vào 3 tuần lễ đầu sau khi thụ thai(nghĩa là trước khi biết
là có thai), vitamine B9 mới có tác dụng bảo vệ. Nói vắn tắt, để việc cấp bổ
sung vitamine B9 hữu ích, không nên chờ đợi xem để biết có thai hay không, như
thế đã là quá muộn...
Để lấy đi chướng ngại
vật này, các người Mỹ đã không bủn xỉn : họ đã quyết định, cách nay hơn 10 năm,
làm phong phú với B9 các chất bột (farine) và những sản phẩm ngũ cốc khác, để
cho mọi phụ nữ ở lứa tuổi có con hưởng được một bảo đảm tốt hơn acide folique.
Và từ hơn 10 năm nay, các phân tích cho thấy rằng chiến lược tỏ ra có hiệu quả
để làm giảm nguy cơ bị các dị tật bẩm sinh.
Hơn thế nữa, nhiều
công trình nghiên cứu gợi ý rằng acide folique cũng có thể đóng một vai trò có
lợi trong sự ngăn ngừa nhiều vấn đề, như các bệnh tim mạch, thậm chí trong sự
lão hóa não bộ.
KHÔNG LỢI ÍCH CHO TẤT CẢ ?
Tiếc thay chỉ đến nay,
không có gì như thế đã được kiểm tra. Về việc sử dụng các bổ sung B9, mặc dầu
việc sử dụng này được biện minh trong trường hợp thai nghén, nhưng việc này
không nhất thiết có lợi cho tất cả.
Dầu so đó là điều được
rút ra từ các công trình nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở hai nghiên cứu
bao gồm 6.800 người bị bệnh tim.
Một bộ phận của những
người tham dự sử dụng đều đặn các bổ sung acide folique, có hay không có B12 và
B6, được cho là tăng cường vài tác dụng có lợi của vitamine B9. Sau 39 tháng
điều trị (hay kiểm chứng đối những người không được điều trị bằng vitamines) và
rồi còn một thời kỳ theo dõi 38 tháng, đó là lúc tổng kết. Ít đáng phấn khởi,
vì lẽ công trình nghiên cứu, được công bố mới đây trong tạp chí rất đứng đắn
Journal of the American Association, sự sử dụng vitamine B9, nhất là lúc được
phối hợp với vitamine B12, được liên kết với một sự gia tăng đáng kể số các
trường hợp ung thư và cac nguy cơ bị ung thư (+21% đối với B9+B12), cũng như sự
gia tăng tỷ lệ tử vong do ung thư (+38% đối với B9 phối hợp với B12).
Công trình nghiên cứu
này mặc dầu không cho phép rút ra những kết luận lâu dài, nhưng nếu những kết
quả này được xác nhận bởi những công trình nghiên cứu khác được tiến hành với
quy mô lớn hơn và trong những nhóm người khác, điều này có thể khiến phải xem
lại việc cho bổ sung.
VITAMINE B CÓ THỂ LÀM
GIẢM SỰ TEO NÃO.
Những liều lượng cao
vitamine B có thể làm giảm 30 đến 50% sự teo não (atrophie cérébrale) nơi những
người bị sa sút nhận thức (déclin cognitif) mức độ trung bình, như thế làm chậm
lại tiến triển về phía bệnh Alzheimer, theo một công trình nghiên cứu của Anh,
được công bố trên internet PLOS one.
Teo não xảy ra một
cách tự nhiên khi tuổi tác gia tăng, nhưng quá trình teo này được đẫy nhanh
trong trường hợp sa sút nhận thức mức độ trung bình, một tình trạng được đánh
dấu bởi sự mất trí nhớ nghiêm trọng ảnh hưởng lên cuộc sống hàng ngày và có thể
là một dấu hiệu báo trước của bệnh Alzheimer nơi những người già.
Một nhóm nghiên cứu
của đại học Oxford đã khảo sát tác dụng của một nhóm vitamine B lên trên 168
người trên 70 tuổi, được chẩn đoán là bị sa sút nhận thức mức độ trung bình.
Trong hai năm, một nửa trong số những bệnh nhân này đã nhận những liều lượng
cao acide folique, B6 và B12. Nửa kia đã nhận một placebo. Trung bình, nhịp độ
tiến triển cua teo não được chậm lại 30% trong nhóm dùng các vitamine B, và đối
với vài bệnh nhân tỷ lệ này lên đến 53%. Vài vitamine B (acide folique, B6 và B12) kiểm soát nồng độ homocystéine
(acide aminé) trong máu. Những nồng độ cao homocystéine được liên kết với một
sự teo não gia tăng và bệnh Alzheimer.
Trong trạng thái tự nhiên, vitamine B hiện diện trong nhiều thức ăn (thịt, trứng, cá, rau xanh). Trên thế giới, 37 triệu người bị chứng sa sút trí tuệ (démence), phần lớn các trường hợp là do Alzheimer, theo OMS.
Trong trạng thái tự nhiên, vitamine B hiện diện trong nhiều thức ăn (thịt, trứng, cá, rau xanh). Trên thế giới, 37 triệu người bị chứng sa sút trí tuệ (démence), phần lớn các trường hợp là do Alzheimer, theo OMS.
MỘT
NỒNG ĐỘ THẤP VITAMINE B6 CÓ THỂ ẢNH HƯỞNG CHỨC NĂNG NHẬN THỨC.
Vitamine B6 có thể là một yếu tố quan trọng, mặc dầu thường bị bỏ quên, của
chức năng nhận thức (fonction cognitive) trong thời kỳ lão hóa.
Những nồng độ tăng cao của homocystéine trong huyết thanh được liên kết với một thiếu hụt nhận thức (déficit cognitif) quan trọng hơn nơi những người già lành mạnh và những bệnh nhân sa sút trí tuệ. Vai trò của các vitamine B tương quan với homocystéine không được rõ ràng trong sự liên kết này, và ít công trình nghiên cứu đã được dành cho các vitamine B. Các nhà nghiên cứu Ái Nhĩ lan đã thăm dò sự liên kết giữa tình trạng của homocystéine và của các vitamine B và sự suy dồi của chức năng nhận thức, trong một công trình nghiên cứu.
Những nồng độ tăng cao của homocystéine trong huyết thanh được liên kết với một thiếu hụt nhận thức (déficit cognitif) quan trọng hơn nơi những người già lành mạnh và những bệnh nhân sa sút trí tuệ. Vai trò của các vitamine B tương quan với homocystéine không được rõ ràng trong sự liên kết này, và ít công trình nghiên cứu đã được dành cho các vitamine B. Các nhà nghiên cứu Ái Nhĩ lan đã thăm dò sự liên kết giữa tình trạng của homocystéine và của các vitamine B và sự suy dồi của chức năng nhận thức, trong một công trình nghiên cứu.
Những người trưởng thành 60 tuổi hoặc hơn, trước đây đã được trắc nghiệm
chức năng nhận thức trong một công trình nghiên cứu, đã được tiếp xúc trở lại.
Chức năng nhận thức của họ đã được đánh giả nhờ MMSE (Mini-Mental State
Examination). Những mẫu nghiệm máu đã được phân tích để định nồng độ của
homocystéine, folate hồng cầu, và các vitamine B12, B6 và riboflavine.
Lúc khởi đầu của công trình nghiên cứu, 3% những người tham gia bị thiếu
hụt folate, 1% bị thiếu vitamine B12.
Sau 4 năm, nhng người tham gia tuổi trung bình 73,4 + hoặc – 7,2 tuổi, đã
có một sự suy sút đáng kể của chức năng nhận thức so với lúc khởi đầu.
Sau khi phân tích, người ta đã nhận thấy rằng những người với nồng độ
vitamine B6 thấp đã có 6 lần nhiều hơn bị một sự tăng nhanh của sa sút nhận
thức. Người ta đã không quan sát thấy một mối liên hệ đáng kể giữa sự suy đồi
nhận thức và homocystéine hay những chất chỉ dấu sinh học của folate, vitamine B12
hay riboflavine.
“ Trong công trình nghiên cứu của chúng tôi, một nồng độ thấp đối với
vitamine B6 lúc khởi đầu được liên kết mạnh với một sự gia tốc của sự suy đồi
nhận thức trong 4 năm. Vitamine B6 có thể là một yếu tố quan trọng, mặc dầu
thường bị lãng quên, của chức năng nhận thức trong quá trình lão hóa. Cần những
công trình nghiên cứu bổ sung để xác nhận những kết quả này ”, các tác giả đã
kết luận như vậy.
NHIỀU
VITAMINE B HƠN CHỒNG LẠI HỘI CHỨNG TIỀN KINH NGUYỆT.
Các phụ nữ ăn nhiều thức ăn giàu vitamine B sẽ ít có khuynh hướng phát triển hội chứng tiền kinh nguyệt (syndrome prémenstruel). Tuy nhiên các bổ sung vitamine không mang lại loại lợi ích này.
Các phụ nữ ăn nhiều thức ăn giàu vitamine B sẽ ít có khuynh hướng phát triển hội chứng tiền kinh nguyệt (syndrome prémenstruel). Tuy nhiên các bổ sung vitamine không mang lại loại lợi ích này.
Elizabeth Bertone-Johnson và các cộng sự viên (Đại học Massachusetts, Hoa
Kỳ) đã phân tích các thói quen ăn uống của hơn 3.000 phụ nữ, trong một thời kỳ
10 năm. Những phụ nữ này đã điền 3 lần một bảng câu hỏi liên quan đến cách ăn
uống. Suốt trong cùng thời kỳ, 1.050 trong số những phụ nữ này đã có những
triệu chứng, mức độ từ trung bình đến nặng, của một hội chứng tiền kinh nguyệt
(lo lắng, những tình cảm trầm uất, đau bụng, mệt mỏi, cảm giác trướng bụng)
Công trình nghiên cứu của họ đã chứng tỏ rằng các phụ nữ, mỗi ngày tiêu thụ
1,9 mg thiamine qua thức ăn, 35% ít bị phát triển một hội chứng tiền kinh
nguyệt hơn so với những phụ nữ chỉ hấp thụ 1,2 mg/ngày. Các kết quả của họ có
thể so sánh với những kết quả về riboflavine (35% ít nguy cơ hơn trong nhóm
dùng 2,5 mg mỗi ngày so với nhóm chỉ dùng 1,4 mg). Về niacine, vitamine B6,
folate và vitamine B12, các nhà đã không tuyên bố mối liên hệ nào.
Dĩ nhiên còn phải tìm hiểu sâu hơn, bằng những công trình nghiên cứu sau
này, về các tác dụng của vitamine B lên chính sự phát triển của hội chứng tiền
kinh nguyệt. Mặt khác, công trình nghiên cứu, đã được công bố ngày 13 tháng hai
trong American Journal of Clinical Nutrition, đã không thể chứng minh rằng
thiamine hay riboflavine tự nó bảo vệ chống lại hội chứng tiên kinh nguyệt. Có
thể rằng các phụ nữ, có một chế độ ăn uống giàu những vitamine này, nhưng có những
thói quen khác trong cuộc sống có một tác dụng bảo vệ.
Những nguồn thức ăn giàu thiamine (vit B1) và những sản phẩm giàu ngũ cốc,
bánh mì, khoai tây, thịt bê, rau xanh, các trái cây khô và gạo hoàn toàn.
Còn về niacine (vit B3), sinh tố này chủ yếu hiện diện trong thịt, cá, lúa
mì, các sản phẩm giàu ngũ cốc, các quả hồ đào (noix) và bơ đậu phụng.
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét