100 KHOA HỌC GIA (56-60)
Sưu tầm
---o0o---
56 - Max von Laue
Max Theodor Felix von Laue (9.10.1879 – 24.4.1960) là một nhà vật lý người Đức, người đã dành giải
thưởng Nobel vật lý năm 1914 nhờ công trình khám phá ra nhiễu xạ tia X gây ra
bởi tinh thể. Max von Laue là người phản đối chủ nghĩa phát xít, ngoài những
đóng góp quan trọng trong quang học, tinh thể học, cơ học lượng tử, siêu dẫn và
thuyết tương đối, ông còn giữ một vài chức vụ hành chính trong việc phát triển
và dẫn lối các nghiên cứu khoa học của Đức trong suốt bốn thập kỉ. Ông cũng là
nhân vật nền tảng trong việc tái thiết và tổ chức khoa học của Đức sau Đệ nhị
thế chiến.
57 - Gustav Kirchhoff
Gustav Robert Kirchhoff (12.3.1824 – 17.10.1887) là một nhà vật lý người Đức đã có những đóng
góp cơ bản về các khái niệm trong mạch điện, phổ học, và sự phát nhiệt của vật
đen. Ông đặt ra khái niệm bức xạ nhiệt vào năm 1862, hai công trình về mạch
điện và bức xạ nhiệt mang tên “Định luật Kirchhoff ". Giải thưởng
Bunsen-Kirchhoff cho phổ học được đặt theo tên ông và cộng sự, Robert Bunsen.
58 - Hans Bethe
Hans Albrecht Bethe sinh
ngày 2 tháng 7 năm 1906 tại Strasbourg, thuộc Alsace-Lorraine lúc đó còn là
lãnh thổ của Ðức. Ông theo học trường trung học ở Frankfurt trong 9
năm, từ 1915 đến 1924. Ông học đại học Munich trong hai năm, rồi chuyển
qua đại học Frankfurt học tiếp để lấy bằng tiến sĩ về Lý thuyết Vật lý
năm 1928, dưới sự bảo trợ của giáo sư Arnold Sommerfeld.
Ngay sau đó, ông làm huấn luyện viên vật lý, nửa năm đầu ở Franfurt
và nửa năm sau ở Stuttgart. Tháng 9 năm 1929 ông dạy ở đại học Munich,
đến năm 1930 ông được thăng cấp Privatdozent [3] và tiếp tục dạy ở đấy đến
1932. Ông đã được học bổng để đi nghiên cứu thêm tại đại học
Cambridge, Anh quốc vào mùa thu năm 1930, và tại La mã (Roma) Ý năm 1931 và
1932. Sau khi đi La mã, ông qua dạy ở trường đại học
Tubingen. Khi đảng Quốc xã (Nazi) lên nắm chính quyền vào năm 1933, ông
rời nước Ðức và di cư sang Anh quốc.
Tháng 10, năm 1933, Hans Bethe sang Anh quốc và ông làm giảng sư ở đại học Manchester trong một năm. Năm sau, ông được học bổng nghiên cứu hậu tiến sĩ của đại học Bristol, và vào tháng 2 năm 1935 ông được bổ nhiệm làm giáo sư diễn giảng (Assistant Professor) tại trường đại học Cornell ở Ithaca, tiểu bang New York, Hoa kỳ. Ông được thăng giáo sư thực thụ vào năm 1937 và dạy luôn ở đại học này, ngoại trừ những năm của cuộc Thế chiến thứ 2. Ông đã đưa ngành Vật lý lên đến đỉnh cao
Tháng 10, năm 1933, Hans Bethe sang Anh quốc và ông làm giảng sư ở đại học Manchester trong một năm. Năm sau, ông được học bổng nghiên cứu hậu tiến sĩ của đại học Bristol, và vào tháng 2 năm 1935 ông được bổ nhiệm làm giáo sư diễn giảng (Assistant Professor) tại trường đại học Cornell ở Ithaca, tiểu bang New York, Hoa kỳ. Ông được thăng giáo sư thực thụ vào năm 1937 và dạy luôn ở đại học này, ngoại trừ những năm của cuộc Thế chiến thứ 2. Ông đã đưa ngành Vật lý lên đến đỉnh cao
Ông là người khuyên
bảo nhiều tổng thống Hoa Kỳ về kế hoạch an ninh quốc gia, và sau thế chiến thứ
hai, ông đã đóng vai trò quan trọng trong việc chống lại vũ khí hạch tâm. Là
một trong những người sáng lập ra Liên hiệp các Khoa học gia ngành Nguyên tử
(the Federation of Atomic Scientists).Trong thời kỳ chiến tranh, ông là mấu
chốt của dự án Manhattan,
là người đứng đầu trong đơn vị vật lý lý thuyết. Sau chiến tranh, ông đem
những nhà vật lý trẻ tài ba nhất từ Los Alamos sang Cornell, đặc biệt là
Richard Feynman và Robert Wilson.
Trong những năm đó, theo lời mời của Robert Oppenheimer, Hans
Bethe nhận làm Trưởng khối Lý thuyết trong kế hoạch chế tạo bom nguyên tử ở Los
Alamos, tiểu bang California.
59 - Euclid
Chân dung Euclid của Justus van
Ghent vào thế kỉ 15. Không có tranh tượng hoặc miêu tả nào về bề ngoài của Euclid từ thời ông còn lại
đến nay
Euclid là nhà toán học lỗi lạc thời cổ Hy Lạp, sống vào thế kỷ thứ 3 TCN. Ông
được mệnh danh là "cha đẻ của Hình học". Có thể nói hầu hết kiến thức
hình học ở cấp trung học cơ sở hiện nay đều đã được đề cập một cách có hệ
thống, chính xác trong bộ sách Cơ sở gồm 13 cuốn do Euclid viết ra, và đó cũng
là bộ sách có ảnh hưởng nhất trong Lịch sử Toán học. Ngoài ra ông còn tham gia
nghiên cứu về luật xa gần, đường cô-nic, lý thuyết số và tính chính xác. Tục
truyền rằng có lần vua Ptolemaios I Soter hỏi Euclid rằng liệu có thể đến với
hình học bằng con đường khác ngắn hơn không? Ông trả lời ngay: "Muôn tâu
Bệ hạ, trong hình học không có con đường dành riêng cho vua chúa".
Euclid sinh ở thành Athena, sống khoảng
330-275 trước Công nguyên, được vua Ai Cập là Ptolemaios I Soter mời về làm
việc ở chốn kinh kỳ Alexandria, một trung tâm khoa học lớn thời cổ trên bờ biển
Địa Trung Hải.
Bằng cách chọn lọc, phân biệt các loại
kiến thức hình học đã có, bổ sung, khái quát và sắp xếp chúng lại thành một hệ
thống chặt chẽ, dùng các tính chất trước để suy ra tính chất sau, bộ sách Cơ
sở đồ sộ của Euclid đã đặt nền móng cho môn Hình học cũng như toàn bộ toán học cổ đại. Bộ
sách gồm 13 cuốn: sáu cuốn đầu gồm các kiến thức về hình học phẳng, ba cuốn
tiếp theo có nội dung số học được trình bày dưới dạng hình học, cuốn thứ mười
gồm các phép dựng hình có liên quan đến đại số, 3 cuốn cuối cùng nói về hình
học không gian. Trong cuốn thứ nhất, Euclid đưa ra 5 định đề:
1.
Qua hai
điểm bất kì, luôn luôn vẽ được một đường thẳng
2.
Đường
thẳng có thể kéo dài vô hạn.
3.
Với tâm
bất kì và bán kính bất kì, luôn luôn vẽ được một đường tròn.
4.
Mọi góc
vuông đều bằng nhau.
5.
Nếu 2
đường thẳng tạo thành với 1 đường thẳng thứ 3 hai góc trong cùng phía có tổng
nhỏ hơn 180 độ thì chúng sẽ cắt nhau về phía đó.
Và 5 tiên đề:
1.
Hai cái
cùng bằng cái thứ ba thì bằng nhau.
2.
Thêm
những cái bằng nhau vào những cái bằng nhau thì được những cái bằng nhau.
3.
Bớt đi
những cái bằng nhau từ những cái bằng nhau thì được những cái bằng nhau.
4.
Trùng
nhau thì bằng nhau.
5.
Toàn
thể lớn hơn một phần.
Với các định đề và tiên đề đó, Euclid
đã chứng minh được tất cả các tính chất hình học.
Con đường suy diễn hệ thống và chặt chẽ
của bộ cơ bản làm cho tập sách được chép tay và truyền đi các nước. Tuy nhiên,
các định đề và tiên đề của Euclid còn quá ít, đặc biệt là không có các tiên đề
về liên tục, nên trong nhiều chứng minh, ông phải dựa vào trực giác hoặc thừa
nhận những điều mà ông không nêu thành tiên đề.
60 -
Gregor Mendel
Gregor
Johann Mendel (20.7.1822 –
6.1.1884) là một nhà khoa học, một linh mục Công giáo người Áo, ông được coi là
"cha đẻ của di truyền hiện đại" vì những nghiên cứu của ông về đặc
điểm di truyền của đậu Hà Lan. Mendel chỉ ra rằng đặc tính di truyền tuân theo
những quy luật nhất định, ngày nay chúng ta gọi là Định luật Mendel. Nội dung
định luật của ông rất đơn giản, tuy nhiên, khi ông còn sống, ý nghĩa và tầm
quan trọng trong các công trình nghiên cứu của ông không được công nhận, người
ta cũng không quan tâm đến các nghiên cứu của ông. Đến tận đến thế kỷ 20 các
kết luận của ông mới được công nhận, khi đó ông được tôn vinh như là nhà khoa
học thiên tài, một danh hiệu ông xứng đáng được nhận từ lúc sinh thời. Ngày nay
người ta vẫn xem năm 1866 là mốc đánh dấu cho sự ra đời của Di truyền học và
Mendel là cha đẻ của ngành này.
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét