CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM
Sưu tầm
---o0o---
13 – Người Gia Rai
Dân tộc Gia Rai là một trong những cư dân sớm sinh tụ ở vùng núi Tây
Nguyên, lan sang một phần đất Campuchia. Trong xã hội Gia Rai xưa đã có Pơ tao
ia (vua nước) và Pơ tao pui (vua lửa) chuyên cúng trời, đất, cầu mưa thuận gió
hòa... Trước thế kỷ XI người Ê Ðê, Gia Rai được gọi chung một tên là Rang Ðêy.
Vào thế kỷ XV-XVI sử sách phong kiến Việt Nam ghi nhận danh hiệu Thủy Xá (vua
nước), Hoả Xá (vua lửa). Chỉ có người đàn ông họ Siu mới được làm vua lửa, vua
nước và con gái họ Rơ chom mới được quyền làm vợ hai vua. Có lẽ chữ Pơ tao đồng
nghĩa với Mtao của người Chăm, Tạo của người Thái và Thao của Lào, đều chỉ
người thủ lĩnh.
Hoạt động sản xuất: Kinh tế trồng trọt là cái gốc của hoạt động sản
xuất. Ðất đai là đối tượng tác động lao động được phân chia thành hai loại -
đất chưa canh tác có tên: đê, trá, lon, vô chủ và đất canh tác gọi chung là
Hma, phần sở hữu của mỗi gia đình. Hma gồm những mảnh đất trồng trọt theo cách
nửa vườn, nửa rẫy; nương phát, đốt, cuốc xới đất và trọc lỗ tra hạt. Còn ruộng
nước dùng cuốc xới ; sục bùn và đang chuyển sang cày, bừa dùng 2 bò kéo.
Chăn nuôi gia đình có: trâu, bò, ngựa, voi, lợn, gà, chó... Trong đó trâu là vật ngang giá trong
việc trao đổi vật quý như chiêng, ché và hiến sinh trong lễ nghi tín ngưỡng.
Nghề phụ gia đình có: mộc, rèn và đan lát. Những người thợ thủ công đã làm ra
những chiếc gùi dùng để đựng đồ mặc, trang sức, vận chuyển. Nghề dệt với khung
dệt kiểu Inđônêdiêng khá thịnh hành tạo được tấm vải khổ rộng, hoa văn đẹp.
Ăn: Gạo tẻ là lương thực chính; lương thực phụ là ngô. Thức ăn có rau,
muối, ớt, canh rau, lâu lâu mới có bữa thịt, cá. Bữa cơm hàng ngày có thể cả gia
đình ngồi quanh nồi cơm, bát ớt... hoặc chia thành từng phần cho mỗi người. Bữa
tiệc, lấy ché rượu cần làm trung tâm, quanh đó có các món ăn đựng trên bát, đĩa
hoặc lá chuối để vừa ăn, vừa uống. Khi rượu ngà say có hát, nhảy múa, đánh
chiêng. Trừ trẻ thơ, mọi người bất kể nam nữ đều hút thuốc lá.
Mặc: Ðàn ông đóng khố vải trắng kẻ sọc nhiều màu (toai), ngày lễ đóng khố
vải chàm dài 4 m và rộng 0,30 m, có đường viền hoa văn và buông tua chỉ nhiều
MÀU Ở HAI ÐẦU. Áo màu đen cộc tay, hở nách, đường viền hoa văn chỉ màu chạy dọc
hai sườn mang đậm dấu vết kiểu pông-sô. Pơtao hoặc chủ làng mặc áo chàm che kín
mông, tay dài, chui đầu, có một mảng sợi màu đỏ làm khuy và khuyết cài từ cổ
đến ngực. Dưới dải cúc là miếng vải đỏ hình vuông khâu đáp vào để làm dấu hiệu
là áo. Ðàn bà mặc váy chàm (dài 1,40 m x rộng 1 m), có đường viền hoa văn chạy
quanh gấu. Phần cạp có tua chỉ trắng hoặc màu. Váy không khâu liền thành ống
nên khi mặc chỉ cuốn vào thân để chỗ giáp hai đầu về phía trước. Họ mặc áo cánh
ngắn bó sát thân, dài tay. Trên cánh tay áo có chiếc được thêu những đường vòng
hoa văn chỉ màu. Nơi ở quanh năm nóng nực nên cả nam lẫn nữ ưa thích cởi trần.
Ở: Nhà sàn cho mỗi gia đình một vợ một chồng mẫu hệ. Kiến trúc có hai
loại. Nhà sàn dài kiểu la-yun-pa, dài 13,5 m và rộng 3,5m là kích thước trung bình
cho mỗi nhà. Nhà được phân thành hai phần: bên mang và bên óc. Cửa bên óc chỉ
quay về hướng Bắc và bên óc dành cho những người đàn bà - chủ gia đình mẫu hệ.
Trong nhà có hai bếp. Nhà nhỏ kiểu Hđrung với kích thước rộng 3m x dài 9m.
Chiều cao từ đất lên đòn nóc không quá 4,50m. Cửa chính thông ra sàn phơi chỉ
quay về hướng Bắc. Hai bên cửa chính có hai cửa sổ. Trong nhà chỉ có một bếp.
Phương tiện vận chuyển: gùi có hai dây đeo qua vai là hình thức phổ
biến. Ngoài ra có ngựa, voi để thồ và cưỡi. Voi còn dùng để kéo...
Quan hệ xã hội: Làng (Plơi hoặc Bôn) vừa là đơn vị cư trú vừa cấu kết thành tổ chức xã
hội, có một hội đồng gồm những ông già chủ trì chung (Phun pơ bút). Hội đồng
chọn người đứng đầu làng (Ơi pơ thun, Thap lơi hay Khoa plơi), có lệ làng gọi
là Kđi. Xã hội Gia Rai truyền thống có hình thức cố kết vùng gọi là Tơ ring.
Người đứng đầu Tơ ring là Khoa Tơ ring, giúp việc xét xử có Po
phắt kđi và Thao kđi. Tơ ring là cộng đồng lãnh thổ, khi có chiến tranh trở
thành liên minh quân sự.
Dòng họ theo chế độ mẫu hệ nên phả hệ hoàn toàn tính về dòng mẹ. Khối
cộng đồng máu mủ được tập hợp thành từng họ - Kơ nung hoặc Ðgioai. Mỗi họ
thường được phân chia nhiều ngành hoặc phân đôi, thành họ khác. Mỗi họ, mỗi
ngành kiêng một tô tem riêng. Gia đình nhỏ mẫu hệ là nét nổi bật của người Gia
Rai khác với trường hợp người Ê Ðê là đại gia đình mẫu hệ.
Cưới xin: Luật tục nghiêm cấm những người cùng ngành họ và dòng mẹ lấy nhau.
Tuổi từ 18-19 nam nữ tự do lựa chọn người yêu, trong đó nữ chủ động lựa chọn lấy
chồng. Phong tục giản đơn, không mang tính chất mua bán và do nhà gái chủ động.
Bảo lưu tục chồng chết, vợ lấy em chồng và ngược lại vợ chết, chồng có thể lấy
chị vợ. Khi đã thành vợ thành chồng thì đàn ông phải sang nhà vợ, không có
trường hợp ngược lại.
Sinh
đẻ: Bà mẹ được coi trọng. Khi mang thai họ không được
làm việc nặng nhọc. Họ rất lo sợ đẻ khó và chết vì sinh nở. Khi sinh nở sản phụ
phải kiêng khem nhiều thứ như không ăn cơm nấu mà chỉ dùng cơm lam, không ăn
thịt mà chỉ ăn rau...
Ma
chay: Người Gia Rai theo tục tất cả người cùng họ mẹ chôn
chung một huyệt. Người đàn ông chết phải khiêng về chôn ở huyệt phía mẹ mình.
Trong huyệt chung ấy, các quan tài được xếp kề sát bên nhau theo chiều ngang
rồi chồng lên theo chiều dọc. Khi quan tài cao bằng miệng huyệt thì lấy ván kê
bốn bề để chôn tiếp vài ba lớp nữa mới làm lễ "bỏ mả" (Họa lui, Thi nga
hay Bó thi) - một nghi thức lớn trong quá trình tang lễ.
Nhà mới: Việc làm nhà mới bắt đầu bằng nghi thức bói tìm đất. Bà chủ đem 7 hạt gạo
đặt trên đất rồi lấy cái bát úp lên để bói tìm sự linh ứng của thần đất. Sau 3
ngày, 3 đêm đi lật bát lên xem nếu hạt gạo còn nguyên là thuận. Ngược lại, mất
hạt nào thì phải đi phải đi bói tìm chỗ khác. Ðặt hạt gạo để bói xong tổ chức
ăn uống, hò reo, múa chiêng 3 ngày. Dựng nhà xong lại mở hội nhà mới 3 hôm nữa
mới kết thúc.
Thờ cúng: Người Gia Rai theo vạn vật hữu linh. Thần linh (Yang) có nhiều loại, trong
đó có ba loại nổi bật được nhắc đến trong lễ cúng hàng năm hay nhiều năm một
lần:
- Thần nhà (Yang sang)
lực lượng bảo vệ nhà cửa được cúng trong nhà. Khi nhà mới dựng thì phải tiến
hành nghi thức lễ đâm trâu và trồng cây gạo.
- Thần làng (yang ala
bôn) và thần nước (yang ia) là lực lượng bảo vệ làng xóm và cuộc sống của mọi
thành viên được cúng ở bến nước và chân núi.
- Thần vua (Yang pó
tao) do vua lửa, vua nước, vua gió (ptao agin) tiến hành lễ cầu trời, mưa
thuận, gió hoà và mùa màng tươi tốt.
Ngoài ra, người Gia Rai còn tin khi chết các linh hồn biến thành ma. Có
hiện tượng gán cho người có ma thuật làm hại gọi là ma lai.
Lễ tết: Xưa nam nữ đến tuổi thành niên có tục cưa răng hàm trên. Việc này do ông
già Pô khoa tkơi thực hiện bằng cách lấy liềm cắt hoặc dùng một viên đá ráp chà
xát vào hàm răng trên, ở ven suối. Cầm máu răng bằng lá thuốc (Tkoi am). Nữ 1-2
tuổi xâu lỗ tai, sau đó lấy bấc cây căng dần tai ra để đến khi trưởng thành thì
đeo hoa tai bằng ngà voi có đường kính đến 6 cm. Nam giới không căng tai mà chỉ
đục lỗ để đeo khuyên.
Lễ nghi lớn nhất là lễ bỏ mả, tạc tượng mồ, lễ lên nhà mới, có ăn, uống,
hát, biểu diễn cồng chiêng.
Lịch: Tháng giêng được tính từ ngày có trận mưa đầu tiên tương đương với tháng
4 dương lịch. Tháng 12 lịch Gia Rai (tháng 3 dương lịch) gọi là Blanning, nghỉ
ngơi lao động và làm các lễ nghi tôn giáo, tín ngưỡng.
Học: Người Gia Rai đã có bộ chữ theo mẫu tự La-tinh. Giống như tất cả các
dân tộc khác, hiện nay học sinh đều học tiếng và chữ phổ thông.
Văn nghệ: Người Gia Rai có nhiều trường ca như Ðăm San, Xinh Nhã, Ðăm Di... thể hiện
dưới hình thức hát thơ có đệm đàn Tưng nưng. Những điệu vũ dân gian Gia Rai có
một số động tác mô phỏng những cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc. Ðàn Tơ rưng,
Krông put, Tưng nưng ... rất được phổ biến.
Chơi: Thanh niên thích chơi kéo co trong ngày lễ.
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét