LÀNG NGHỀ VIỆT NAM
7 – LÀNG TRANH ĐÔNG HỒ
---o0o---
Làng tranh Đông Hồ là làng nghề nổi
tiếng về tranh dân gian, thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
cách Hà Nội chừng trên 35 km. Làng Đông Hồ (đôi khi dân địa phương chỉ gọi là
làng Hồ) nằm trên bờ nam sông Đuống, cạnh bến đò Hồ, nay là cầu Hồ.
Làng Đông Hồ xưa còn gọi là làng
Mái. Các cụ làng Đông Hồ vẫn truyền lại mấy câu ca rằng:
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có sông tắm mát có nghề làm tranh.
Làng Đông Hồ nằm ngay sát bờ sông
Đuống, ngày xưa chỉ cách sông một con đê, đó là ý trong câu "Có sông tắm
mát có nghề làm tranh". Ngày nay, do sự bồi lấp của dòng sông nên từ đê ra
đến mép nước giờ khá xa.
Tranh Đông Hồ, hay tên đầy đủ là
tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, là một dòng tranh dân gian Việt Nam với xuất xứ
từ làng Đông Hồ (xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Trước kia tranh
được bán ra chủ yếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua
tranh về dán trên tường, hết năm lại lột bỏ, dùng tranh mới. Thơ Tú Xương về
tranh Đông Hồ ngày Tết có câu:
Đì đoẹt ngoài sân tràng pháo chuột
Loẹt lòe trên vách bức tranh gà
Ngoài các đặc điểm về đường nét và
bố cục, nét dân gian của tranh Đông Hồ còn nằm ở màu sắc và chất liệu giấy in.
Giấy in tranh Đông Hồ được gọi là giấy điệp: người ta nghiền nát vỏ con điệp,
một loại sò vỏ mỏng ở biển, trộn với hồ (hồ được nấu từ bột gạo tẻ, hoặc gạo
nếp, có khi nấu bằng bột sắn - hồ dùng để quét nền tranh thường được nấu loãng
từ bột gạo tẻ hoặc bột sắn, hồ nấu từ bột nếp thường dùng để dán) rồi dùng chổi
lá thông quét lên mặt giấy dó. Chổi lá thông tạo nên những ganh chạy theo đường
quét và vỏ điệp tự nhiên cho màu trắng với ánh lấp lánh những mảnh điệp nhỏ
dưới ánh sáng, có thể pha thêm màu khác vào hồ trong quá trình làm giấy điệp.
Màu sắc sử dụng trong tranh là màu tự nhiên từ cây cỏ như đen (than xoan hay
than lá tre), xanh (gỉ đồng, lá chàm), vàng (hoa hòe), đỏ (sỏi son, gỗ vang),
v.v. Đây là những màu khá cơ bản, không pha trộn và vì số lượng màu tương ứng
với số bản khắc gỗ, nên thường thường tranh Đông Hồ chỉ dùng tới 4 màu mà thôi.
Cái làm nên nét đặc sắc độc đáo của
tranh Đông Hồ chính là chất liệu làm tranh, được chế biến thủ công từ các
nguyên liệu có sẵn trong thiên nhiên: Giấy làm từ cây dó, màu đỏ từ gạch non,
màu vàng từ hoa điệp vàng, màu đen từ lá tre đốt, màu trắng được nghiền từ vỏ
sò, ốc… Trên cơ sở những màu sắc cơ bản ấy người dân đã tạo thêm nhiều màu sắc
khác nhau từ việc trộn lẫn các màu. Để hoàn thành một sản phẩm, không kể khâu
khắc tranh trên bản gỗ, có sẵn giấy và màu, người làm tranh phải rất công phu,
cẩn thận trong từng giai đoạn: sơn hồ lên giấy, phơi giấy cho khô hồ, quết điệp
rồi lại phơi giấy cho khô lớp điệp, khi in tranh phải in từng màu lần lượt, nếu
có 5 màu thì 5 lần in, mỗi lần in là một lần phơi… Cứ thế, dưới ánh sáng mặt
trời lấp lánh từng hình ảnh, đường nét của cảnh sắc thiên nhiên, nếp sinh hoạt
của người dân, những hình ảnh của cuộc sống thường ngày ... như “bừng” sáng
trên giấy dó. Mọi giai đoạn đều thật công phu nên đòi hỏi người làm tranh luôn
cẩn trọng, cầu kì, chú ý đến từng chi tiết nhỏ để có được một bức tranh đẹp.
Trước kia tranh được bán ra chủ yếu
phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh về dán trên
tường, hết năm lại lột bỏ, dùng tranh mới. Tranh Đông Hồ xuất xứ từ làng Đông
Hồ (xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Làng Mái là tên gọi dân gian
xưa kia của làng tranh Đông Hồ bây giờ. Vào thế kỷ XVI tranh Đông Hồ xuất hiện
nhưng không ai thống kê hết được có bao nhiêu mẫu tranh mà chỉ biết gồm có 5
loại là: Tranh thờ, Tranh lịch sử, Tranh chúc tụng, Tranh sinh hoạt và Truyện
tranh. Từ cuối thế kỷ XIX đến 1944 là thời kì cực thịnh của làng tranh. Lúc ấy,
trong làng có 17 dòng họ thì tất cả đều làm tranh. Đến hẹn lại lên, cứ khoảng
tháng 7, tháng 8 hàng năm là cả làng đã tất bật để chuẩn bị cho mùa tranh Tết,
khắp làng rực rỡ sắc màu của giấy điệp, không một mảnh đất trống nào không được
người dân làng Hồ tận dụng để phơi giấy: từ sân nhà, sân đình, ven các ngõ xóm,
đường làng, dọc theo triền đê cho đến các nóc nhà, nóc bếp….Không khí trong
làng rộn rạo từ sáng đến tối suốt mấy tháng liền như thế.
Mỗi năm, chợ tranh chỉ nhộn nhịp và
tấp nập nhất vào tháng Chạp, họp 5 phiên vào các ngày 6, 11,16, 21 và 26. Bà
con, du khách thập phương đổ về mua tranh đông vui, tấp nập. Hàng nghìn, hàng
triệu bức tranh các loại được mang ra xếp gọn lại bán cho những lái buôn, hoặc
bán lẻ cho các gia đình mua về làm tranh treo tết để mang phú quý, vinh hoa cho
nhà mình. Sau phiên chợ tranh cuối cùng (26/12 âm lịch) những gia đình nào còn
lại tranh đều bọc kín đem cất đi chờ đến mùa tranh năm sau lại mang ra chợ
tranh bán. Đến chợ tranh làng Hồ không chỉ có khách buôn và mua tranh, mà có cả
những người hâm mộ nghệ thuật tranh dân gian thích thăm thú, xem tranh và đi
trảy hội mùa xuân.
Tranh Đông Hồ có được sức sống lâu
bền và có sức cuốn hút đặc biệt với nhiều thế hệ con người Việt Nam cũng như du
khách nước ngoài cũng bởi những đề tài trên tranh phản ánh đậm chất cuộc sống
mộc mạc, giản dị, gần gũi gắn liền với văn hoá người Việt. Nghệ nhân Nguyễn
Đăng Chế đã giải thích về ý nghĩa của việc dùng màu sắc sao cho phù hợp với mỗi
đề tài khác nhau: nền màu đỏ cho tranh đánh ghen để lột tả được cái nóng giận
bực bội ngột ngạt của không khí lúc đó, nền màu vàng cho cảnh vui tươi tràn
ngập sắc xuân trên các bức tranh ngày tết, nền màu hồng nhạt cho tranh làng quê
yên bình
Đôi khi những bức tranh Đông Hồ còn
được những nghệ nhân trang trí kèm theo những từ chỉ dẫn hoặc những tứ thơ tình
tứ, lãng mạn,
Cứ bóc tách từng lớp nang văn hoá hiện trên mỗi bức tranh Đông Hồ cũng đủ cho chúng ta thấy vốn liếng văn hoá Việt thuần khiết và trong sáng, đa dạng và vô cùng độc đáo.
Cứ bóc tách từng lớp nang văn hoá hiện trên mỗi bức tranh Đông Hồ cũng đủ cho chúng ta thấy vốn liếng văn hoá Việt thuần khiết và trong sáng, đa dạng và vô cùng độc đáo.
Các nghệ nhân Đông Hồ đã chuyển hóa
những lời hay - ý đẹp, những kinh nghiệm đúc rút trong cuộc sống từ ngàn đời để
lại vào tranh dân gian với những cách thể hiện rất riêng:
Những ai đã yêu thích tranh Đông Hồ
hẳn rất quen thuộc với các tranh gà: Gà mẹ con, gà đại cát, gà dạ xướng, kê
cúc. Chẳng hạn bức "Gà thủ hùng".
Theo sử sách xưa kể lại, vào khoảng
năm 1915 cụ Chánh Hoàn gả con gái cho một anh Phán, Cụ Đám Giác ( tên thật là
Nguyễn Thể Thức (1882 - 1943) là một nghệ nhân sáng tác nổi tiếng của Đông Hồ.
Ngoài tranh về cuộc sống ở nông thôn cụ còn vẽ nhiều tranh truyện tranh phong
cảnh, tranh tố nữ...) đã mừng đám cưới bằng một mẫu tranh mới: một gia đình gà
gồm gà trống, gà mái và đàn con. Bằng ngôn ngữ ước lệ, các con gà được cách
điệu hóa, chúng sống động mà không cần giống thực. Gà mái có bố cục theo đường
xoắn ốc - tạo nên sự nũng nịu. Gà trống được đặt trong một hình thang, đáy lớn
nằm trên - tạo nên tư thế chủ gia đình, che chở cho gà mái và đàn con. Bức
tranh gợi không khí hạnh phúc, đầm ấm trong một gia đình. Trên tranh có dòng
chữ nôm "Lắm con nhiều cháu, giống cánh giống lông" một lời chúc thật
sâu sắc! Bức tranh này được xây dựng từ câu phương ngôn: "Con nhà tông
không giống lông cũng giống cánh".
Con trâu "đầu cơ nghiệp của nhà
nông", cũng được các nghệ nhân Đông Hồ dành nhiều tâm huyết.Tranh cưỡi
trâu thổi sáo có chữ: "Hà diệp cái thanh thanh" (Lọng lá sen xanh
xanh). Một tàu lá sen dựng đứng như chiếc ô - ý tưởng thật thú vị. Con trâu
nghển cổ thưởng thức tiếng sáo, tư thế, dáng vẻ của nó khiến ta cùng nghe thấy
tiếng sáo réo rắt, thấy bầu trời trong xanh lồng lộng, thấy cuộc sống thanh
bình...
Tranh cưỡi trâu thả diều có chữ
"Vũ thu phong nhất tướng" (Một hình ảnh gió thu múa). Một cậu bé nằm
ngửa trên lưng trâu thả diều... thật thú vị. Một câu phương ngôn về trẻ chăn
trâu: " Đầu đội nón mé như lộng che - Tay
cầm cành tre như roi ngựa". Thực tế khó có thể nằm trên lưng trâu mà dong
các diều bằng nón mê như vậy? Thế mà ngắm tranh ta vẫn thấy khoái! Bức tranh
thả diều còn có hai dị bản khác, một bức có chữ "Vũ thu phong nhất
dực" (gió thu múa, một cánh), bức kia có chữ "Nhất tương phúc lộc
điền" (một hạnh phúc của nhà nông) - cũng thú vị không kém.
Trải qua nhiều thăng trầm, lệ mua
tranh Đông Hồ treo ngày Tết đã mai một, làng tranh cũng thay đổi nhiều: Trong
những năm kháng chiến chống pháp, khi cả nước điêu linh, Đông Hồ cũng rơi vào
cảnh đạn bom lay lắt, làng tranh bị giặc đốt phá tan hoang, người dân trong
làng lo chạy loạn khắp nơi, các bản khắc tranh cũng bị thiêu cháy rụi. Nghề
tranh từ đó cũng bị gián đoạn. Hoà bình lập lại (1954) làng tranh được khôi
phục. Nhiều tổ hợp tác sản xuất tranh Đông Hồ được thành lập, đây cũng là thời
điểm tranh Đông Hồ được xuất khẩu sang các nước XHCN đạt kết quả cao. Nhưng từ
năm 1985- 1990, do tác động của nền kinh tế thị trường, nhu cầu thẩm mỹ của
người dân thay đổi, việc xuất khẩu tranh gặp nhiều khó khăn. Người dân làng
tranh chuyển dần sang làm hàng mã. Nghề làm tranh tồn tại yếu ớt, chỉ còn lẻ tẻ
một vài gia đình bám trụ với nghề tranh như: gia đình ông Nguyễn Đăng Chế, gia
đình ông Nguyễn Hữu Sam… Đến nay, nhờ công gìn giữ của các nghệ nhân ấy mà
tranh dân gian này được khôi phục lại. Cùng với nhiều sáng tạo mới mẻ, tranh
dân gian Đông Hồ lại chiếm được cảm tình của nhiều du khách trong và ngoài nước
mỗi khi đặt chân đến mảnh đất văn vật hữu tình này.
Vài bức tranh Đông Hồ
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét