Bạn Nguyệt Thanh (TP
HCM) thân chuyển bài viết về
CA SĨ THÁI THANH
(Các Bạn mở loa và
click vào link màu đỏ ở cuối bài để nghe Thái
Thanh hát)
---o0o---
Gửi những ai yêu tiếng
hát Thái Thanh để “vĩnh biệt linh hồn” người ca sĩ tài danh này: tuy bà chưa
chết nhưng linh hồn Bà đã bị Alzheimer (là bệnh thoái hóa cả não bộ không hồi
phục) cướp đi rồi. Bà hiện sống trong Nursing Home tại Hoa Kỳ.
Không chỉ một người,
tiếp cận “hiện tượng” Thái Thanh từ góc độ “tiểu sử” – một tiểu sử “trải dài”
vài thời kỳ lịch sử thăng trầm của đất nước, mà chủ yếu là “đất nước” VNCH
trước 1975 – cùng toàn bộ gia tài đồ sộ năm bẩy trăm ca khúc bà đã hát từ dân
ca, tình ca, tâm ca, bi ca, hoan ca, hùng ca, đạo ca…, đã gọi bà là tiếng “khóc
cười theo mệnh nước nổi trôi“.
Cũng không chỉ một
người, từ góc độ “thưởng thức ca nhạc”, mệnh danh bà là “tiếng hát vượt thời
gian”, “giọng ca vàng không tuổi” – chính xác là “The Ageless Golden Voice“,
như được in trên bìa một băng nhạc Sài Gòn xưa.
Những danh xưng ấy
dành cho Thái Thanh tất nhiên không thuyết phục tất cả mọi người, mà chỉ đúng
đối với những ai yêu mến bà. Vì sao ? Giọng hát của nữ danh ca này không dành
cho những đôi tai:
- không chuộng các “âm
tần cao“
- và/hay không chuộng
các “cường độ biểu cảm – đặc biệt là bi cảm quá lớn” (gọi nôm na là “quá mùi“).
Tuy nhiên con số những
kẻ yêu (giọng hát) Thái Thanh là không nhỏ, và trong số ấy cũng không hề thiếu
những tên tuổi lớn các nhà làm văn học nghệ thuật (như nhạc sĩ Phạm Đình
Chương, nhạc sĩ Phạm Duy, nhạc sĩ Cung Tiến, danh cầm Nghiêm Phú Phi, nhà văn
kiêm nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, nhà văn Mai Thảo, nhà thơ Nguyên Sa, …),cho nên
những lời xưng tụng dành cho người ca sĩ ấy không thể “hàm hồ” được; chúng tất
yếu phải “chính xác” và “xứng đáng”. Trong chủ quan hạn hẹp của người viết bài
này, tiếng hát Thái Thanh có thể ví như một “đặc sản”, chỉ dành cho những kẻ
“sành điệu”, đồng thời cũng từ chối quyết liệt những ai không là “đồng điệu”.
Bạn sẽ nhăn mặt : “Làm
gì có một đặc sản như thế” ? Xin thưa rằng có : Quả sầu riêng ! Đúng vậy, mặc
ai có thể “bịt mũi xua tay”, vẫn không hiếm người lõi đời “nghiện” nó, xem nó
là “số Một“, và nó luôn là một trong những loại quả “quí và đắt nhất”. Vậy thì,
vâng, có nhiều người tôi quen biết “nghiện” Thái Thanh (và nghiện cả sầu riêng)
! Thậm chí đối với họ chỉ có mỗi một mình Thái Thanh biết “hát”, còn những ca
sĩ khác chỉ là “phát âm một cách khổ sở”. (Tôi nhớ đến truyện biếm “Tiếng hát”
khi nghe ai phát biểu về Thái Thanh tương tự như vậy.)
Nói về “ngôi vị” của
Thái Thanh trong giới ca sĩ Sài Gòn trước 75 có lẽ không ai chính xác bằng
“người trong giới”, đặc biệt là một trong các danh ca hàng đầu thuở ấy – Lệ
Thu.
Năm 1970, nhân chuyến
tham dự khai mạc Hội Chợ Osaka, Nhật Bản, Lệ Thu đã trả lời phỏng vấn của báo
chí : “Nếu chị Thái Thanh có mặt ở đây và hát, mọi người sẽ cúi đầu khâm phục
!“. Cũng chính Lệ Thu, trong một ca khúc hải ngoại nhớ về Sài Gòn, đã “sửa” ca
từ của một câu khi hát “Đâu rộn ràng tiếng hát Thái Thanh?” Kiêu ngạo và đắt
giá nhất trong giới ca sĩ ngày đó, Lệ Thu chỉ chấp nhận “nghiêng đầu” trước
Thái Thanh.
Sự thật thì sao ? Mặc
dầu Thái Thanh đi trước cả về tuổi đời lẫn tuổi nghề so với hai diva Lệ Thu và
Khánh Ly (cũng như với hầu hết các ca sĩ khác), giọng ca lẫn cách hát của bà
vẫn “trẻ trung”, “hiện đại” và “độc đáo” nhất, đặc biệt với những ca khúc này :
1) CHUYỆN TÌNH BUỒN
2) ĐẠO CA 8 – GIỌT
CHUÔNG CAM LỘ
3) ĐẠO CA 9 – CHẮP TAY HOA
4) ĐÊM MÀU HỒNG
5) NGÀY XƯA HOÀNG THỊ
6) RU TA NGẬM NGÙI
7) TẠ ƠN ĐỜI
8) TIẾNG HÁT TO
9) TÌNH SẦU DU TỬ LÊ
Tôi vẫn tin là bạn
không cần nhìn các ca sĩ (Việt Nam) “làm trò” khi họ hát, mà chỉ cần nghe cách
phát âm cũng đủ để phân biệt và xếp hạng họ là loại ca sĩ nào. Nhưng đối với
Thái Thanh thì khác, bạn nên ngắm “khẩu hình” của bà lúc bà hát – cái cách bà
cấu âm (articulate) từng “âm”, từng “chữ” – chuyển động của má, môi, cơ miệng,
lưỡi, hàm (răng) trên, hàm (răng) dưới, xương quai hàm; điều đó tác động đến cả
cặp lông mày, cũng như vầng trán, và tất nhiên rồi, cả đôi mắt nữa. Mà không
chỉ thế, hãy nhìn thanh quản ở cổ, nhìn hai vai, và tay,.., của người hát.
Cách “phát âm” / “cấu
âm” của Thái Thanh, bắt đầu từ “bộ máy phát âm”, đã tác động hoàn toàn tự nhiên
đến các cơ trên mặt, rồi lan tỏa toàn thân. Khi hát, Thái Thanh như “đang bơi”,
hay “đang bay”, (theo nghĩa đen) trong âm nhạc, và toàn bộ ngôn ngữ cơ thể của
người ca sĩ ấy toát lên thông điệp này: Được cất tiếng hát, đối với bà, là Tất
Cả – là Sự Sống, là Hạnh Phúc vô bờ.
Nếu như nhạc Việt Nam
hiện đại đã công nhận những nữ diva như: Thanh Lam, Hồng Nhung, Mỹ Linh là
những giọng hát có sức sống mãnh liệt nhất trong lòng khán giả thì ngược dòng
chảy thời gian về trước những năm 1975, nữ danh ca Thái Thanh với tầm ảnh hưởng
với công chúng bằng giọng hát của mình, xứng đáng được coi là diva của Sài Gòn
một thuở.
Thái Thanh vốn là con
nhà nòi âm nhạc, chị gái là ca sĩ Thái Hằng, anh rể là nhạc sĩ Phạm Duy, anh
trai là nhạc sĩ Phạm Đình Chương, con gái là ca sĩ Ý Lan, nhưng danh ca Thái
Thanh cho đến nay dù tóc đã chuyển màu trắng cước vẫn chẳng hề bị chìm lút giữa
những nghệ sĩ nổi tiếng trong đại gia đình mình.
Diva Thái Thanh. Biết hát nhờ nhạc phẩm của Phạm Duy
Gia đình nữ danh ca
Thái Thanh vốn là gia đình nòi âm nhạc ở Hà thành xưa. Thái Thanh là thứ nữ của
ông Phạm Đình Phụng với người vợ hai. Người vợ đầu của ông Phạm Đình Phụng sinh
được 2 người con là Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm. Người vợ thứ hai sinh ra
Phạm Thị Quang Thái (ca sĩ Thái Hằng – vợ nhạc sĩ Phạm Duy), nhạc sĩ Phạm Đình
Chương và con gái út Phạm Thị Băng Thanh (tức danh ca Thái Thanh). Thái Thanh
còn một người chị gái lớn, sinh trước ca sĩ Thái Hằng, nhưng không may đã trúng
bom chết khi còn nhỏ.
Song thân của danh ca
Thái Thanh đều là những người rất sành nhạc cổ. Thân phụ của Thái Thanh vốn
chơi đàn nguyệt, còn thân mẫu chơi đàn tranh và đàn tỳ bà hay có tiếng ở đất Bắc.
Nên tất cả anh em của Thái Thanh đều ngấm máu văn nghệ sĩ từ khi còn nhỏ.
Quê ngoại của Thái
Thanh ở Sơn Tây, quê nội ở ngay Hà Nội. Thái Thanh chào đời năm 1934 tại làng
Bạch Mai, Hà Nội. Năm 1946, 12 tuổi, Thái Thanh đã được ông bà Phạm Đình Phụng
đưa theo cùng các anh chị lên Sơn Tây tản cư. Cũng tại nơi đây, người chị đầu
của Thái Thanh đã bị trúng bom tử nạn. Ông bà Phạm Đình Phụng lại đưa con chạy
về xuôi, mở một quán phở đặt tên là Thăng Long. Tại quán Thăng Long này, các
văn nghệ sĩ kháng chiến thường dừng chân, ăn phở và nghe nhạc. Chị em Phạm Đình
Chương (nghệ danh Hoài Bắc), Phạm Thị Quang Thái (nghệ danh Thái Hằng) và Phạm
Thị Băng Thanh (nghệ danh Thái Thanh) thường biểu diễn ngay tại quán Thăng
Long. Khách đến rất vui vì được thưởng thức “cây nhà lá vườn”.
Đầu năm 1949, anh chị
em Thăng Long gia nhập các ban văn nghệ quân đội của liên khu IV. Quán Thăng
Long dời về chợ Neo (Thanh Hóa). Tại đây, Thái Hằng kết hôn với Phạm Duy và
hành trình âm nhạc của gia đình từ nay nảy nở thêm những tài năng mới, với Duy
Quang là con đầu lòng sinh năm 1951, và tiếp theo là các con Duy Cường, Thái
Hiền, Thái Thảo.
Chuyện Thái Hằng gặp
gỡ và nên vợ chồng với nhạc sĩ Phạm Duy không chỉ là một bước ngoặt lớn với nữ
ca sĩ nổi tiếng hi sinh cho chồng con này, mà cũng là dấu mốc quan trọng trong
cuộc đời danh ca Thái Thanh.
Thái Thanh bắt đầu hát
từ năm 13, 14 tuổi. Đến giờ, nữ danh ca không còn nhớ rõ bài hát đầu tiên mà
mình trình diễn là bài nào nhưng chắc chắn là một bài hát của Phạm Duy. Lúc đó,
nhạc sĩ Phạm Duy đang theo đuổi Thái Hằng nên thường dùng Thái Thanh làm cái cớ
lấy điểm với chị Thái Hằng. Mà Phạm Duy nổi tiếng với tài sáng tác, nên chỉ
nghĩ ra cách lấy điểm nhanh nhất và hiệu quả nhất là qua con đường âm nhạc.
Phạm Duy hơn Thái Thanh chục tuổi, còn Thái Hằng hơn Thái Thanh 7 tuổi. Khi anh
rể tương lai chinh phục chị gái, Thái Thanh trở thành cầu nối cho Phạm Duy. Hồi
đó, có bài “Dòng sông Xanh” nhạc ngoại quốc, lời Việt rất nổi tiếng. Phạm Duy
đã đặt lời Việt cho bài “Dòng sông Xanh” cho cô em gái Thái Thanh bé xíu hát để
lấy điểm với cô chị Thái Hằng. Năm 1948, Thái Hằng kết hôn với Phạm Duy. Nhạc
sĩ Phạm Duy chính thức trở thành người một nhà với Thái Thanh. Chẳng biết Phạm
Duy và Thái Hằng nên duyên vì những lẽ gì, nhưng chắc hẳn có một phần công lớn
của danh ca Thái Thanh.
Từ sau khi hát bài
“Dòng sông Xanh”, Thái Thanh đã cùng chị Thái Hằng và anh trai Phạm Đình Chương
đi biểu diễn ở quân khu 4. Lần đầu tiên Thái Thanh hát cho công chúng nghe là ở
một vùng quê những ngày tản cư kháng chiến. Khi đó, luôn có những ban nhạc hát
cho công chúng ở vùng quê nghe. Lên sân khấu ở tuổi 14, còn bé xíu mà đứng
trước đông đảo bà con, nên Thái Thanh cũng sợ lắm. Nhưng sau khi cất tiếng hát,
thì tiếng hát, âm nhạc không những làm Thái Thanh tan biến mọi nỗi sợ mà còn
cảm thấy hứng khởi, hạnh phúc, vì lúc đó, Thái Thanh thấy mình vinh dự được
đứng trong ban hợp ca gồm các anh các chị như Hoài Trung, Hoài Bắc, Thái Hằng,
những thành viên của ban hợp ca “Thăng Long”.
May mắn cho Thái Thanh
là song thân của cô đều là nghệ sĩ, yêu âm nhạc nên không ngăn cấm con cái theo
nghiệp “xướng ca vô loài”. Các cụ chỉ dặn con nhất định phải học hành trước đã,
đàn hát là chuyện phụ thôi, nhưng kể từ năm 1950, Thái Thanh đã lựa chọn đi
theo con đường ca hát. Tên tuổi của Thái Thanh gắn liền với những bản nhạc của
Phạm Duy. Kể từ bài “Dòng sông Xanh”, Phạm Duy đặt lời cho Thái Thanh hát, thì
Phạm Duy đã biết giọng của Thái Thanh sinh ra là để hát những ca khúc do ông
sáng tác. Cũng có người cho rằng, Phạm Duy vì yêu quý giọng hát của Thái Thanh
nên đã sáng tác nhiều bài hát hợp với giọng của Thái Thanh. Trải qua 60 năm,
Phạm Duy vẫn khẳng định: trong những người hát nhạc Phạm Duy, ông ưng nhất là
Thái Thanh, Duy Quang và sau này có Đức Tuấn. Chỉ có Thái Thanh mới đủ khả năng
nâng bổng nhạc của Phạm Duy lên và chỉ có nhạc của Phạm Duy mới đáng để Thái
Thanh hát. Nhiều ca khúc của Phạm Duy được Thái Thanh thể hiện đúng chất và
đúng tầm hơn hẳn những ca sĩ khác cùng thời - đó là nhận xét của một người làm
chuyên môn bỏ công nghiên cứu về nhạc Phạm Duy và tiếng hát Thái Thanh.
Thái Thanh có biệt tài
“phiêu” cũng với những ca khúc của Phạm Duy. Có những nhạc phẩm của Phạm Duy,
Thái Thanh tự ý đổi ca từ khi lên sân khấu, nhưng nhạc sĩ Phạm Duy phải công
nhận điều đó làm cho bản nhạc của ông bỗng mang một chút “duyên lạ”.
Như nhạc phẩm “Cho
nhau”, Phạm Duy viết: “Cho nhau ngòi bút cùn trơ – Cho nhau, cho những câu thơ
tàn mùa – Cho nốt đêm mơ về già”. Thái Thanh lại hát thành: “Cho nhau ngòi bút
còn lưa…”. “Lưa” là một từ cổ, có nghĩa là còn sót lại, nhưng mang một âm thanh
u hoài, luyến lưu tiếc nuối. Như trong ca dao Bình Trị Thiên vẫn có câu hát đẫm
buồn: “Trăm năm dù lỗi hẹn hò – Cây đa bến Cộ con đò vắng đưa – Cây đa bến Cộ
còn lưa – Con đò đã thác năm xưa tê rồi”. Nên từ “còn lưa” đã đẩy ca khúc “Cho
nhau” về một cõi xa xưa đầy u hoài, luyến tiếc, để lại một dư âm da diết trong
cảm nhận về ngôn từ trong lòng thính giả. Nhờ thế mà chữ tình trong “Cho nhau”
trở nên lai láng, mơ hồ về quá vãng, còn day dứt mãi trong lòng tình nhân chứ
không còn xao xác, tận cùng như “ngòi bút còn trơ”. Nên dù vậy, Phạm Duy lưu ý
không chỉ nhắc nhớ một câu chuyện thú vị trong bài hát chứ chưa hề trách cô em
vợ một tiếng nào. Mà vì tình “còn lưa” nên Thái Thanh lại hát câu: “Cho nốt đêm
mơ về già” thành “Cho nối đêm mơ về già”, sâu nặng và thủy chung, như cứu rỗi
hai linh hồn chưa bao giờ an lạc vì trót nhớ thương, tình lỡ.
Phạm Duy viết: “Cho
nhau thù oán hờn ghen – Cho nhau cho cõi âm ty một miền”, Thái Thanh lại hát thành:
“Cho nhau cho nỗi âm ty một miền”. Vô tình mà như hữu ý, vì từ “cõi” như là một
ý niệm hiện hữu về không gian, như xa anh em về cõi chết, tưởng như “cõi âm ty”
rất bao la nhưng thật ra chết là hết có còn vấn vương gì. Cho em “nỗi âm ty”,
từ “nỗi” dùng để diễn tả tâm trạng con người, con người tưởng như không thể
sánh được với cả một “cõi” không gian nhưng nỗi lòng người lại bao la đến vô
hình. “Nỗi âm ty” là sự chết đang tồn tại trong thực thể còn đang sống. Chính
cái “phiêu”, cái sáng tạo rất duyên dáng của Thái Thanh đã nâng những bài hát
mà Thái Thanh thể hiện, khiến cùng một nhạc phẩm, nhưng dưới sự thể hiện của
Thái Thanh luôn ở tầm rất khác so với các ca sĩ cùng thời.
Thái Thanh được cho là
một giọng hát “vượt thời gian”, từng bị dư luận vẽ ra đủ thứ giai thoại về bí
quyết học nhạc. Có dư luận nói, Thái Thanh hát hay như thế nhờ chui đầu vào
chum để tập phát âm. Lẽ thật, giọng hát Thái Thanh sống mãi vì hai điều: Thái
Thanh hát với tình yêu âm nhạc và cháy hết mình khi đứng trước khán giả.
Khi còn nhỏ, Thái
Thanh không theo học nhạc ở trường lớp nào. Nhạc lý cũng như là xướng âm, Thái
Thanh phải đặt mua sách từ bên Pháp, theo đó tự học, có gì khó thì hỏi nhạc sĩ
Phạm Đình Chương. Phạm Đình Chương cũng chủ yếu là tự học rồi từ vốn kiến thức
đó lại trở thành thầy của em gái. Phạm Đình Chương có lần nói: “Cô có cái đặc
biệt là trước khi tôi dậy thì cô đã biết rồi”. Thái Thanh có được giọng ca sống
mãi với thời gian và vẻ đẹp khiến đàn ông không thể không ngoái nhìn. Có lần ca
sĩ Khánh Ly trong dịp hội ngộ Thái Thanh đã nắm bàn tay đẹp có tiếng của Thái
Thanh nói: “Nếu cháu là chồng của cô, cháu đành phải để cô đi hát trước khán
giả, nhưng cháu sẽ giữ hai bàn tay cô ở lại nhà, cháu không cho ai được nhìn
hai bàn tay ấy khi cô hát”.
Danh ca, một người phụ nữ và một người mẹ
Nhớ lần ca sĩ Ý Lan
trở lại hát tại Hà Nội trong một đêm nhạc tại Nhà hát Lớn, ca sĩ Ý Lan đã tâm
sự, đây là nơi Ý Lan nhất định phải tìm về, vì đó là khung trời kỷ niệm của
danh ca Thái Thanh – mẹ cô và tài tử Lê Quỳnh – cha cô. Dù sau này, Thái Thanh
và Lê Quỳnh không còn bên nhau, nhưng mong ước được một lần quay lại khung trời
kỷ niệm, nơi bắt đầu tình yêu của hai người mãi mãi là ước mơ của tài tử Lê
Quỳnh. Chính tại Nhà hát Lớn, trong một buổi biểu diễn của Thái Thanh, tài tử Lê
Quỳnh khi đó còn chưa nổi danh đã phải trốn vé để vào nghe giọng hát mà mình
vốn hằng ái mộ, để rồi sau đó bắt đầu một mối duyên đẹp, dù mối duyên đó không
trọn vẹn đến cuối đường.
Thái Thanh lập gia
đình với Lê Quỳnh năm 1956 và sinh liên tiếp 5 người con, 3 gái, 2 trai. Đó là:
Ý Lan sinh năm 1957, Lê Việt 1958, Quỳnh Dao tức Quỳnh Hương 1960, Thanh Loan
1962 và Lê Đại 1964. Cậu út Lê Đại nhiều lần “chê” mẹ là sinh nhiều quá, “y như
gái Tầu” vậy. Lê Đại cũng là người kém may mắn nhất trong 5 chị em: khi ra đời
khỏe mạnh, nhưng Lê Đại bị bệnh sốt tê liệt từ lúc 8 tháng. Tuy sống sót nhưng
Lê Đại bị liệt nửa thân dưới.
Thái Thanh được biết
đến là nữ danh ca có ảnh hưởng lớn ở Sài Gòn trước năm 1975 nhưng cũng là một
người mẹ hết mình vì gia đình. Năm 4 tuổi, Lê Đại bị ốm, được tổ chức Terre Des
Hommes đưa qua nước Ý chữa trị 3 năm liền và năm 1971, Lê Đại trở về Việt Nam
khi 7 tuổi. Từ khi sang Mỹ, Thái Thanh đảm đương trách nhiệm làm mẹ với rất
nhiều nghị lực. Thái Thanh tập lái xe dù không thích thú chút nào, nhưng phải
tập ngay để có thể hàng ngày đưa đón Lê Đại đi học. Sau 2 năm học tại College
Golden West, Lê Đại đã được vào đại học Long
Beach. Sự kiên trì và nhẫn nại của bà mẹ Thái Thanh đã
giúp Lê Đại (nay là Michael Đại Lê tự tin hơn, yêu đời hơn. Lê Đại tốt nghiệp
đại học năm 1996. Giờ Lê Đại đã đi làm, sống tự lập thoải mái trong một căn hộ
riêng gần trường và rất ngưỡng mộ mẹ. Khi sức khỏe tốt, mỗi tuần, Thái Thanh
đều đến thăm nom con trai, mang thêm vài món ăn Việt Nam nấu sẵn cho cậu út.
Thái Thanh không chỉ
vất vả với Lê Đại. Khi cô bé Thanh Loan sang Mỹ thì cũng là lúc cô bắt đầu bị
một dạng bệnh trầm cảm. Thái Thanh một lần nữa lại khổ đau cùng cực trước số
phận khắt khe. Trong thời gian tìm hiểu về bệnh trạng của Thanh Loan, biết con
không học hành bình thường như các anh chị em được, Thái Thanh đã cố gắng dìu
dắt con gái, đi làm những việc thiện nguyện, mong con tìm được niềm vui sống…
Nhưng bệnh tình Thanh Loan cứ nặng dần, sau cùng, Thái Thanh đành phải nghe lời
bác sĩ và các bạn đồng cảnh ngộ, đưa con vào một bệnh viện chữa trị. Nhưng Thái
Thanh vẫn kiên trì phấn đấu với phương tiện và hoàn cảnh của mình để giúp đỡ
con yêu quay trở lại với cuộc sống. Vai trò làm mẹ của 2 con bị bệnh nặng cũng
lại đòi hỏi ở Thái Thanh một thứ nghị lực bằng “thép cứng” cùng sự kiên trì lớn
lao. Với hoàn cảnh như vậy, những đức tính phi thường nơi người mẹ được tôi
luyện đã giúp Thái Thanh được con cái yêu kính.
Sống xa Lê Quỳnh từ
năm 1965, Thái Thanh một mình đảm đương vai trò vừa là mẹ, vừa thay cha trong việc
nuôi dạy con cái. Khi dịu dàng, lúc nghiêm khắc, Thái Thanh luôn mong các con
có được căn bản vững chắc về văn hóa và đạo đức, để mai sau trở thành những Con
Người có thể viết hoa. Dù các con của Thái Thanh đều có giọng ca thiên phú,
nhất là Ý Lan và Quỳnh Hương, nhưng khi Ý Lan còn nhỏ, Thái Thanh nhất quyết
không cho con theo nghề ca hát. Thái Thanh buộc con phải học hành như bao người
khác. Nhưng dường như là số phận, sau này Ý Lan đi làm, lấy chồng rồi mới bước
vào nghiệp xướng ca và vẫn nổi tiếng dù bước vào nghề rất muộn.
Ý Lan luôn coi mẹ là
thần tượng trong cuộc sống cũng như trong âm nhạc, như Ý Lan đã tâm sự:“Mẹ tôi
là một người đàn bà tình cảm và rất can đảm. Suốt thời thơ ấu cho đến khi
trưởng thành, hình ảnh của mẹ Thái Thanh âu yếm, chăm sóc và yêu thương các con
đã ảnh hưởng đến tôi rất nhiều khi tôi làm mẹ. Tình cảm thiêng liêng của mẹ
dành cho tôi là niềm hạnh phúc và cả sự may mắn vô bờ bến”.
Sự nổi tiếng của bố Lê
Quỳnh và mẹ Thái Thanh là cả một gia tài dành riêng cho con cái. Ý Lan trở
thành ca sĩ như ngày hôm nay là nhờ có cả hai yếu tố quan trọng mà bố mẹ đã để
lại trong dòng máu của Ý Lan. Cô tâm sự: “Tôi có tiếng hát và kỹ thuật hát thừa
hưởng từ mẹ, còn kỹ thuật trình diễn được thừa hưởng từ bố”. Ý Lan cho đây là
điều may mắn, chứ làm sao có thể nghĩ là một áp lực cho cuộc sống của mình. Đối
với riêng tình phụ tử và mẫu tử thì lúc nào gia đình Ý Lan cũng có sự yên ấm.
Bố mẹ Ý Lan đã không còn sống chung với nhau từ khi Ý Lan 8 tuổi. Tuy nhiên, bố
mẹ vẫn rất quý nhau và trân trọng nhau, cho nên Ý Lan và các em trong gia đình
đã quen một nếp sống cố định. Còn về tính tình, có những lúc bố mẹ uốn nắn các
con để theo nề nếp căn bản nhưng luôn luôn đi đôi với tình cảm nhẹ nhàng.
Ngoài đời thường, Thái
Thanh cũng là một người rất đỗi đàn bà. Chúng ta quen hình dung Thái Thanh trên
sàn diễn, khi đang hát, hoặc qua những đĩa, băng nhạc. Chúng ta thường nhớ đến
Thái Thanh như một đệ nhất và danh ca và quên mất Thái Thanh trong đời thường
như một bà mẹ, một người nội trợ thích nấu ăn, một phụ nữ thích mặc đẹp, ăn
ngon, kể cả ăn quà vặt. Khi 70 tuổi, Thái Thanh vẫn cần mẫn làm các món dưa
chua, củ cải ngâm nước mắm, kho cá thu, làm thịt đông… Thái Thanh vẫn say sưa
kể về cách làm các món ăn “Bắc Kỳ chính cống”. Cũng như khi đứng trên sân khấu,
Thái Thanh dồn hết mình cho âm nhạc thì khi nấu nướng, toàn bộ con người bà,
thân, trí và tâm. Thái Thanh đều chú tâm vào chuyện nấu nướng y như khi hát
vậy.
Như Thái Thanh tâm sự
về cách ứng xử với cây hoa lan: “Cư xử với cây khó lắm, nhất là hoa lan, không
như cư xử với người đâu. Nếu mình không chăm sóc tử tế, không khéo, không làm
đúng những gì mình phải làm, thì cây nó bỏ đi. Còn với người, người ta sẵn sàng
chịu đựng nhau, đôi khi người ta giả dối dể vẫn liên lạc với nhau vì những điều
gì đó. Còn với cây, mình có yêu cây thì cây mới ở lại với mình."
Click xem Videos Thái
Thanh :
Trí Huân .
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét