CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM
Sưu tầm
---o0o---
8 – Ngưới Cơ Ho
Cơ Ho (còn gọi là Cờ Ho, Kơ Ho, hoặc Kơho theo chính tả tiếng Cơ Ho) là một
trong những dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Người Cơ Ho ở Việt Nam
có dân số 166.112 người. Địa bàn cư trú chủ yếu của dân tộc này là tỉnh Lâm
Đồng, bao gồm nhiều nhóm địa phương như Cơ
Ho Srê, Cơ Ho Chil, Cơ Ho Nộp, Cơ Ho Lạch, Cơ Ho String
và Cơ Ho Cờ Dòn.
Kinh tế của người Cơ Ho chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, ngoài ra còn săn
bắt và hái lượm lâm thổ sản và một số nghề thủ công như rèn, đan lát, dệt.
Công cụ sản xuất
truyền thống: rìu (sùng); chà gạc (woát hay yoas - dùng để chặt cây, là một
đoạn tre già uốn cong một đầu để tra lưỡi sắt), gậy chọc lỗ tra hạt (chrmul),
riêng nhóm Chil ngoài gậy chọc lỗ tra hạt còn có thêm p'hal (dùng khi vừa chọc
lỗ vừa tra hạt, có cán bằng gỗ, lưỡi sắt dài khoảng 28 cm, rộng
3–4 cm). Công cụ canh tác lúa nước của người Srê có cuốc; cày (ngal) làm
bằng gỗ, trước đây lưỡi cũng bằng gỗ nhưng gần đây thay bằng sắt; bừa (Sơkam)
răng gỗ và Kơr (dùng để trang đất cho bằng phẳng). Cày, bừa và kơr đều do 2
trâu kéo.
Đơn vị tổ chức xã hội thường thấy của người Cơ Ho là Bon (tương đương
với làng). Đó vừa là một đơn vị tổ chức xã hội, vừa là một đơn vị kinh tế tự
cấp, tự túc của dân tộc Cơ Ho. Bon là làng truyền thống theo kiểu một công xã
nông thôn mang đậm dấu ấn của thị tộc mẫu hệ dựa trên cơ sở cư trú trong những
căn nhà dài, kế cận nhau theo nhóm dòng họ. Đứng đầu bon là già làng (Kuang
bon). Về quyền lợi kinh tế, già làng cũng giống như mọi thành viên khác của
làng nhưng về mặt tinh thần, người này lại có uy tín gần như tuyệt đối so với
các thành viên khác trong làng. Già làng là hiện thân của truyền thống và là
một yếu tố tinh thần đưa đến sự thống nhất của cộng đồng (bon) trong xã hội
truyền thống của người Cơ Ho. Trong xã hội truyền thống thì chủ làng, cùng với
chủ rừng (Tombri), thầy cúng và các gia trưởng hợp thành tầng lớp trên của
người Cơ Ho. Sự khác biệt giữa các tầng lớp trong xã hội truyền thống chủ yếu
dựa vào sự khác biệt chút ít về những tư liệu sinh hoạt như chiêng, ché, nồi
đồng, chứ không phải là các tư liệu sản xuất chủ yếu trong sản xuất nông
nghiệp. Chưa có sự bóc lột sức lao động của những thành viên khác trong cộng
đồng làng, cộng đồng dân tộc... Tuy nhiên trong xã hội đó, đã xuất hiện sự phân
tầng xã hội: kẻ giàu, người nghèo, "con ở hoặc "tôi tớ trong
gia đình. Ở những vùng tập trung dân cư với mật độ cao, hình thành một tổ chức
liên minh giữa những bon với nhau trên cơ sở tự nguyện, gọi là M'đrông.
Trong xã hội truyền thống của người Cơ Ho đã tồn tại hai hình thức gia
đình theo chế độ mẫu hệ: gia đình lớn và gia đình nhỏ. Người phụ nữ đúng vai
trò chủ động trong hôn nhân, sau hôn lễ, người đàn ông về nhà vợ ở (nếu gặp
trường hợp gia đình hiếm muộn thì người phụ nữ vẫn có thể ở nhà chồng), con cái
tính dòng họ theo mẹ, con gái là người thừa kế. Tập tục cổ truyền của người Cơ
Ho tuyệt đối cấm kỵ việc kết nôn giữa những người có cùng một dòng họ, nhất là
ở cùng một địa phương. Con chú, con bác, con dì, không được lấy nhau. Trái lại,
con cô, con cậu từ hai phía có thể có quan hệ hôn nhân với nhau theo luật tục.
Sau khi vợ chết, người chồng có thể kết hôn với người em gái của vợ. Và ngược
lại, nếu chồng chết, người vợ góa có thể kết hôn với người em trai của chồng
nếu đôi bên ưng thuận. Hôn nhân của người Cơ Ho dựa trên cơ sở sự ưng thuận
giữa hai bên trai gái, cha mẹ không quyết định. Theo xu thế phát triển quá
trình giải thể các gia đình lớn chuyển dần sang gia đình nhỏ đang diễn ra mạnh
mẽ, đặc biệt là ở những vùng kinh tế phát triển hơn hoặc ở gần đường giao thông
lớn, đô thị. Độ tuổi kết hôn của người Cơ Ho thường là 16 - 17 tuổi đối với nữ
và 18 - 20 tuổi đối với nam, bình quân một phụ nữ sinh 5 - 6 con nên tỷ lệ sinh
cao.
Ẩm thực: Người Cơ Ho
thường ăn ba bữa, theo tập quán ăn bốc, lương thực chính là gạo ăn với thực
phẩm như cá, thịt, rau. Trước kia, họ nấu ăn bằng ống nứa, sau này mới dùng các
dụng cụ nấu ăn bằng đất nung, đồng, gang. Các món ăn thường chế biến khô để
thuận tiện cho ăn bốc. Thực phẩm kho hoặc luộc, canh được chế biến từ rau trộn
với tấm và cho thêm ớt, muối. Thức uống là nước suối, dụng cụ trữ nước uống là
những quả bầu khô hoặc ghè. Người Cơ Ho hút các loại cây thuốc phơi khô cuốn
lại, rượu cần (tơrnơm) làm từ gạo, ngô, sắn...với men chế biến từ cây rừng rất
được ưa chuộng trong các bữa tiệc, lễ hội...
Trang phục: trang phục
của đàn ông là khố bằng vải bản rộng, dài khoảng 1,5 – 2 m, có hoa văn theo dải
dọc. Phụ nữ dùng váy bằng một tấm vải quấn quanh người rồi giắt cạp. Vay nền
đen, có diềm hoa văn trắng. Nếu thời tiết lạnh, họ khoác thêm chăn (ùi) ra
ngoài. Phụ nữ dùng vòng cổ, vòng tay, cườm và khuyên căng tai làm đồ trang sức.
Nhà ở: người Cơ Ho ở nhà
sàn dài bằng gỗ, hai mái uốn cong, lợp bằng cỏ tranh, có liếp nghiêng ra phía
ngoài và cũng lợp tranh để chống lạnh. Trước cửa ra vào là cầu thang lên xuống,
vách đối diện với cửa để ché, giỏ đựng đồ đạc và bàn thờ. Mọi sinh hoạt chủ yếu
(ăn uống, nghỉ ngơi, tiếp khách) đều diễn ra quanh bếp lửa trong nhà.
Người Cơ Ho tin rằng mọi mặt của đời sống đều do các thế lực siêu nhiên
quyết định. Tín ngưỡng về siêu nhiên trong quan niệm của người Cơ Ho có tính
chất đa thần...Thần linh (yang) là thế lực phù hộ cho con người vị và ma quỷ
(chà) lại gây tai họa. Vị thần tối cao là Nđu, rồi có thần Mặt Trời, Mặt Trăng,
thần Núi, thần Sông, thần Đất, thần Lúa...Họ cúng tế trong những dịp thực hiện
hoặc xảy ra những sự kiện quan trọng (hiếu hỷ, những giai đoạn trong sản xuất,
ốm đau bệnh tật...). Liên quan đến trồng lúa, người Cơ Ho thực hiện các lễ nghi
ở từng công đoạn như gieo lúa, khi lúa trổ bông, đạp lúa và cho lúa vào kho.
Trong các nghi lễ cúng tế, tuỳ tầm quan trọng của buổi lễ họ dùng trâu, lợn, dê,
hoặc gà để tế sống cùng với rượu. Bàn thờ (nao) thường đặt ở chỗ trang trọng và
tôn nghiêm nhất trong nhà. Bàn thờ ngày trước làm bằng ván gỗ có chạm trổ nhưng
nay hầu như không còn nữa, giờ đây người ta nhận ra chỗ thờ cúng nhờ những
nhánh cây, bông lúa vắt trên mái đối diện với cửa ra vào.
Đến nay các lễ nghi phong tục cổ truyền của người Cơ Ho vẫn còn được bảo
lưu. Bên cạnh đó, mấy chục năm lại đây một bộ phận khá lớn người Cơ Ho đã theo
đức tin Kitô giáo được du nhập từ bên ngoài, bao gồm cả Công giáo Ro6ma và Tin
Lành. Kinh thánh và các tài liệu truyền giáo khác được dịch ra tiếng Cơ Ho và
các nhà truyền giáo đã sử dụng ngôn ngữ đó trong việc truyền giảng đạo.
Chữ viết: Vào đầu thế
kỷ 20, chữ Cơ Ho được xây dựng bằng hệ thống chữ latin nhưng mặc dù đã được cải
tiến nhiều lần, được dùng để dạy trong một số trường học, nhưng loại chữ này
chưa phổ cập.
Văn học nghệ thuật: Vốn văn học nghệ thuật dân gian Cơ Ho khá phong phú. Thơ ca đậm chất trữ tình và giàu nhạc tính. Một số vũ khúc cổ truyền thường được diễn trong các lễ hội. Các nhạc cụ truyền thống như bộ cồng chiêng gồm 6 chiếc, kèn ống bầu (Kơmbuat), đàn ống tre (Kơrla), trống (Sơgơr)... có khả năng hòa âm với lời ca hoặc độc tấu.
Hàng năm, người Cơ Ho tổ chức ăn Tết khi mùa màng đã thu hoạch xong
(theo thời vụ hiện nay thường vào tháng 12 dương lịch. Tết này có ý nghĩa đón
lúa về nhà (Nhô Lir Bông hay Nhô Lirvong ). Theo tập quán, các gia đình thay
phiên nhau mỗi năm hiến một con trâu để cả bon tổ chức lễ đâm trâu (nho
sa rơ pu) trong dịp này. Lễ tổ chức ngoài trời trước nhà chủ có vật hiến tế,
nhà già làng hay trên mảnh đất rộng, bằng phẳng, cao ráo trong làng, với cây
nêu trang trí sặc sỡ. Mọi người nhảy múa theo tiếng cồng chiêng. Thịt trâu được
chia cho từng gia đình, còn máu trâu bôi vào trán những người dự lễ như một sự
cầu phúc. Lễ tết kéo dài 7 - 10 ngày, trong các ngày Tết, dân làng đến chung
vui với từng gia đình. Trong từng gia đình, người ta cũng tổ chức hiến tế gà,
bôi máu lên vựa thóc, sàn kho, cửa ra vào, cửa sổ. Sau Tết, người ta mới được
ăn lúa mới và thực hiện các công việc lớn như làm nhà, chuyển làng...
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét