CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM
Sưu tầm
---o0o---
12 – Người Ê-Đê
Tên tự gọi: Anăk Ea Ðê, Ra Ðê (hay Rhađê), ê Ðê, êgar, Ðê.
Nhóm địa phương: Kpă, Adham, Krung, Mđhur, Ktul, Dliê, Hruê, Bih, Blô, Kah, Kdrao, Dong Kay, Dong Mak, Ening, Arul, Hwing, Ktlê, Êpan...
Dân số: 194.710 người.
Nhóm địa phương: Kpă, Adham, Krung, Mđhur, Ktul, Dliê, Hruê, Bih, Blô, Kah, Kdrao, Dong Kay, Dong Mak, Ening, Arul, Hwing, Ktlê, Êpan...
Dân số: 194.710 người.
Ngôn ngữ: Tiếng nói của người ê Ðê thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô-Pôlinêxia (ngữ hệ Nam
Ðảo).
Lịch sử: Người ê Ðê là cư dân đã có mặt lâu đời ở miền trung Tây nguyên. Dấu vết
về nguồn gốc hải đảo của dân tộc ê Ðê đã phản ánh lên từ các sử thi và trong
nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật tạo hình dân gian. Cho đến nay, cộng đồng ê Ðê
vẫn còn là một xã hội đang tồn tại những truyền thống đậm nét mẫu hệ ở nước ta.
Hoạt động sản xuất: Người ê Ðê chủ yếu trồng lúa rẫy theo chế độ luân khoảnh. Rẫy sau một
thời gian canh tác thì bỏ hóa cho rừng tái sinh rồi mới trở lại phát, đốt. Chu kỳ canh tác khoảng từ 5-8 năm tuỳ theo chất đất và
khả năng hồi phục của đất. Rẫy đa canh và mỗi năm chỉ trồng một vụ. Ruộng nước
trâu quần chỉ có ít nhiều ở vùng Bih ven hồ Lắc.
Gia súc được nuôi nhiều hơn cả là lợn và trâu, gia cầm được nuôi nhiều
là gà, nhưng chăn nuôi chủ yếu chỉ để phục vụ cho tín ngưỡng. Nghề thủ công gia
đình phổ biến có nghề đan lát mây tre làm đồ gia dụng, nghề trồng bông dệt vải
bằng khung dệt kiểu Inđônêdiêng cổ xưa. Nghề gốm và rèn không phát triển lắm.
Trước đây việc mua bán, trao đổi bằng phương thức hàng đổi hàng.
Ăn: Người ê Ðê ăn cơm tẻ bằng cách nấu trong nồi đất nung hay nồi đồng cỡ
lớn. Thức ăn có muối ớt, măng, rau, củ do hái lượm, cá, thịt, chim thú do săn
bắn. Thức uống có rượu cần ủ trong các vò sành. Xôi nếp chỉ dùng trong dịp cúng
thần. Nam
nữ đều có tục ăn trầu cau.
Mặc: Trang phục truyền thống là phụ nữ quấn váy tấm dài đến gót, mùa hè thì
ở trần hay mặc áo ngắn chui đầu. Nam giới thì đóng khố, mặc áo cánh ngắn chui
đầu. Mùa lạnh, nam nữ thường choàng thêm một tấm mền. Ðồ trang sức có chuỗi
hạt, vòng đồng, vòng kền đeo ở cổ và tay, chân. Nam nữ đều có tục cà răng-căng tai
và nhuộm đen răng. Ðội đầu có khăn, nón.
Ở: Ðịa bàn cư trú chủ yếu hiện nay là tỉnh Ðắc Lắc, phía nam tỉnh Gia Lai
và miền tây Phú Yên, Khánh Hoà. Ngôi nhà truyền thống của người ê Ðê là nhà sàn
dài, kiến trúc mô phỏng hình thuyền với 2 đặc trưng cơ bản là: hai vách dọc
dựng thượng thách - hạ thu; hai đầu mái nhô ra. Nhà chỉ có hai hàng cột ngang,
kết cấu theo vì cột, không kết cấu theo vì kèo. Không gian nội thất chia ra làm
hai phần theo chiều dọc. Phần đầu gọi là Gah, vừa là phòng khách, vừa là nơi
sinh hoạt cộng đồng của cả đại gia đình mẫu hệ. Phần cuối gọi là ôk, dành cho
các cặp hôn nhân ở trong từng buồng có vách ngăn bằng phên nứa.
Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là gùi đan cõng trên lưng bằng đôi quai quàng qua vai. ở vùng
Krông Băk phổ biến có loại gùi cao cẳng. Vận chuyển trên bộ thì có voi nhưng
không phổ biến lắm.
Quan hệ xã hội: Gia đình ê Ðê là gia đình mẫu hệ, hôn nhân cư trú phía nhà vợ, con mang
họ mẹ, con gái út là người thừa kế. Xã hội ê Ðê vận hành theo tập quán pháp
truyền của tổ chức gia đình mẫu hệ. Cả cộng đồng được chia làm hai hệ dòng để
thực hiện hôn nhân trao đổi. Làng gọi là buôn và là đơn vị cư trú cơ bản, cũng
là tổ chức xã hội duy nhất. Người trong một buôn thuộc về nhiều chi họ của cả
hai hệ dòng nhưng vẫn có một chi họ là hạt nhân. Ðứng đầu mỗi làng có một người
được gọi là chủ bến nước (Pô pin ca) thay mặt vợ điều hành mọi hoạt động của
cộng đồng.
Cưới xin: Người phụ nữ chủ động trong việc hôn nhân, nhờ mai mối hỏi chồng và cưới
chồng về ở rể. Khi một trong hai người qua đời thì gia đình và dòng họ của
người quá cố phải có người đứng ra thay thế theo tục "nối dòng" (chuê
nuê) để cho người sống không bao giờ đơn lẻ, sợi dây luyến ái giữa hai dòng họ
Niê và Mlô không có chỗ nào bị đứt theo lời truyền bảo của ông bà xưa.
Ma chay: Khi có người chết thì tục nối dòng phải được thực hiện. Người chết già
và chết bệnh thì tang lễ được tổ chức tại nhà rồi đưa ra nghĩa địa thổ táng.
Xưa kia có tục người trong một dòng họ chết trong một thời gian gần nhau thì
các quan tài được chôn chung một huyệt. Vì quan niệm thế giới bên kia là sự tái
hiện thế giới bên này nên người chết được chia tài sản đặt ở nhà mồ. Khi dựng
nhà mồ, lễ bỏ mả được tổ chức linh đình, sau đó là sự kết thúc việc săn sóc
vong linh và phần mộ.
Nhà mới: Việc làm nhà được cả làng quan tâm. Sự giúp đỡ lẫn nhau về nguyên vật
liệu: gỗ, tre, nứa và tranh lợp cũng như ngày công thông qua hình thức gọi là
H’rim zít (tổ chức "giúp công" lao động hay "đổi công"
trong làng). Lễ khánh thành được tiến hành sau khi dựng xong hàng cây chân vách.
Nhưng việc dọn lên nhà mới có thể được thực hiện trước đó một thời gian dài khi
các điều kiện để khánh thành nhà chưa cho phép. Nữ giới là đoàn người đầu tiên
được bước lên sàn nhà mới. Họ mang theo nước và lửa để sưởi ấm và tưới mát cho
nơi cư trú mới mẻ này. Ðó là cách chúc phúc cho ngôi nhà và các thành viên của
gia chủ. Dẫn đầu các thành viên nữ là một khoa sang – bà chủ của gia đình mẫu
hệ.
2
Lễ Tết: Người ê Ðê ăn tết vào tháng chạp
(tháng 12 lịch âm) khi mùa màng đã thu hoạch xong (không vào một ngày nhất
định, tuỳ theo từng buôn). Sau tế ăn mừng cơm mới (hmạ ngắt) rồi mới đến tết
(mnăm thun) ăn mừng vụ mùa bội thu. Ðó là tết lớn nhất, nhà giàu có khi mổ
trâu, bò để cúng thần lúa; nhà khác thì mổ lợn gà. Vị thần lớn nhất là đấng
sáng tạo Aê Ðiê và Aê Ðu rồi đến thần đất (yang lăn), thần lúa (yang mđiê) và
các thần linh khác. Phổ biến quan niệm vạn vật hữu linh. Các vị thần nông được
coi là phúc thần. Sấm, sét, giông bão, lũ lụt và ma quái được coi là ác thần.
Nghi lễ theo đuổi cả đời người và lễ cầu phúc, lễ mừng sức khoẻ cho từng cá
nhân. Ai tổ chức được nhiều nghi lễ này và nhất là những nghi lễ lớn hiến sinh
bằng nhiều trâu, bò, chè quý (vò ủ rượu cần) thì người đó càng được dân làng
kính nể.
Lịch: Nông lịch cổ truyền ê Đê được tính theo tuần trăng: một năm có 12 tháng
và được chia làm 9 mùa tương ứng với 9 công đoạn trong chu kỳ nông nghiệp rẫy:
mùa phát rẫy, mùa đốt rẫy mới, mùa xới đất, mùa diệt cỏ... Mỗi tháng có 30
ngày.
Học: Việc học tập (học nghề, truyền bá kiến thức...) theo lối làm mẫu, bắt
chước và nhập tâm, truyền khẩu. Ðến năm 1923 mới xuất hiện chữ ê Ðê theo bộ vần
chữ cái La-tinh.
Văn nghệ: Có hình thức kể khan rất hấp dẫn. Về văn chương, khan là sử thi, trường
ca cổ xưa; về hình thức biểu diễn là loại ngâm kể kèm theo một số động tác để
truyền cảm. Về dân ca có hát đối đáp, hát đố, hát kể gia phả... Nền âm nhạc ê
Ðê nổi tiếng ở bộ cồng chiêng gồm 6 chiêng bằng, 3 chiêng núm, một chiêng giữ
nhịp và một trống cái mặt da. Không có một lễ hội nào, một sinh hoạt văn hoá
nào của cộng đồng lại có thể vắng mặt tiếng cồng chiêng. Bên cạnh cồng chiêng
là các loại nhạc cụ bằng tre nứa, vỏ bầu khô như các dân tộc khác ở Trường Sơn,
Tây Nguyên, nhưng với ít nhiều kỹ thuật riêng mang tính độc đáo.
Chơi: Trẻ em thường thích chơi cù quay, thả diều vằng có sáo trúc. Trò chơi đi
cà kheo trên cao nguyên cũng lôi cuốn không ít thiếu niên ê Ðê ở nhiều nơi. Trò
bịt mắt dê, ném lao (ném xa và ném trúng mục tiêu cũng được nhiều trẻ em ê Ðê
ưa thích.
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét