CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM (3)
Sưu tầm
---o0o---
3 – Người Brâu
Người Brâu (còn gọi là người Brạo)
là một dân tộc thiểu số sinh sống chủ yếu tại Campuchia, Lào và một ít tại Việt
Nam,
Tại Việt Nam, theo điều tra dân số năm 1999 thì người Brâu, cùng với người
Ơ Đu, là một trong những tộc người ít dân nhất hiện nay ở Việt Nam, chỉ với 313
người, còn theo ước tính năm 2006 thì có 84 hộ với dân số 322 người, sống tập
trung ở làng Đăk Mế, xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum, thuộc Tây Nguyên.
Dân số
Chưa thấy số liệu chính thức mới nhất về dân số tại Lào và Campuchia
(cập nhật thống kê dân số Campuchia 2008 sẽ có vào tháng 9 năm 2009). Theo các
nguồn khác nhau thì dân số người Brâu tại Campuchia khoảng 14.000 người, tại
Lào khoảng 13.000 người tới 24.000 người.
Tại Việt Nam
từ năm 1981 trở lại đây thì dân số người Brâu dao động trong khoảng 300 người.
Cuộc sống
Người Brâu vốn ở vùng nam Lào và đông bắc Campuchia, mới nhập cư vào
Việt Nam
khoảng 4-5 đời nay.
Người Brâu vốn quen với cuộc sống du canh du cư, đốt rừng làm rẫy để
trồng các loại lúa, ngô, sắn, sử dụng các công cụ sản xuất thô sơ như rìu, rựa
và chiếc gậy chọc lỗ tra hạt. Với kỹ thuật trồng trọt này, năng suất cây trồng
đạt được thấp.
Văn hóa
Đánh phết
Tộc người này có truyền thống văn hóa độc đáo, dù kỹ thuật nông nghiệp
còn lạc hậu. Văn hóa của người Brâu thể hiện ở các phong tục như hôn nhân, ma
chay; ở nghệ thuật âm nhạc độc đáo, thể hiện qua các loại nhạc cụ, dân ca; ở
các kiến trúc và trang phục riêng và ở các sinh hoạt văn hóa truyền thống như
thả diều, đi cà kheo, đánh phết.
Phong tục
Trong phong tục hôn nhân, nhà trai tổ chức hỏi vợ phải nộp lễ vật cho
nhà gái. Đám cưới được tiến hành tại nhà gái, và chàng rể phải ở lại nhà vợ
khoảng 2 đến 3 năm rồi mới được làm lễ đưa vợ về ở hẳn nhà mình. Trong phong tục
ma chay, người chết được đưa ra khỏi nhà, cho vào quan tài độc mộc và quàn tại
một căn nhà riêng do dân làng dựng lên. Mọi người đến chia buồn, gõ chiêng
cồng, mấy ngày sau mới mai táng. Những ché, gùi, dao, rìu... được bỏ lại trong
nhà mồ được coi là số của cải gia đình dành cho người đã mất.
Âm nhạc
Chiêng tha
Các nhạc cụ cổ truyền của dân tộc Brâu có cồng và chiêng gồm nhiều loại
khác nhau. Đặc biệt có bộ chiêng tha (chỉ gồm hai chiếc) nhưng có thể trị giá
từ 30 đến 50 con trâu. Chiêng tha, gồm chiêng vợ và chiêng chồng, là một biểu
tượng tinh thần, quyền uy tối linh trong đời sống cộng đồng thông qua sinh hoạt
lễ hội. Đó là "vật chủ" thông linh giữa thế giới phàm tục của con
người và thế giới các thần trên cao, nên nó được ký thác chức năng phán truyền.
Do đố bộ chiêng được đặt ở vị trí trang trọng không chỉ lúc diễn xướng mà cả
khi cất giữ.
Krông put
Các thiếu nữ thường chơi krông pút là nhạc cụ gồm 5-7 ống lố ô dài ngắn
không đều nhau đem ghép với nhau, tạo âm thanh bằng đôi bàn tay vỗ vào nhau
ngoài miệng ống. Khi ru con hoặc trong đám cưới, người Brâu có những điệu dân
ca thích hợp.
Kiến trúc
Nhà của người Brâu có những đặc điểm rất dễ nhận, ít thấy ở nhà những
dân tộc khác. Nhà của họ là kiểu nhà sàn, mái dốc, cạnh nhà chính có nhà phụ là
nơi ở của những người già và cất giữ lương thực, đồ dùng.
Trước hết, người Brâu rất chú trọng làm đến việc làm đẹp cho ngôi nhà.
Điều này được thể hiện ở các kiểu "sừng đầu đốc". Chỉ trong một làng
nhỏ có thể thấy nhiều kiểu khác nhau. Chạy dọc theo sống nóc, người ta còn dựng
một dải trang trí không chỉ đẹp mà còn rất độc đáo.
Bộ khung nhà với vì kèo đơn giản, vách che nghiêng theo thế "thượng
khách hạ chủ". Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt: vào nhà từ phía đầu
hồi. Thang bắc lên một gian hồi để trống rồi mới vào nhà. Cách bố trí trên mặt
sàn của gian hồi này cũng rất đặc biệt. Mặt sàn chia làm ba phần với các độ
chênh khác nhau.
Trong nhà chia đôi theo chiều dọc, nửa về bên trái, một phần dành cho
con gái, còn lại là nơi sinh hoạt của con trai về ban ngày vì đêm họ ra ngủ tại
nhà rông. Còn nửa kia đặt bếp.
Trang phục
Người Brâu có trang phục đơn giản nhưng vẫn thể hiện cá tính trong tạo
hình và trang trí.
Nam giới ở trần, đóng khố. Đến khoảng 14 đến 16 tuổi, con trai Brâu phải
cưa bốn răng cửa hàm trên, và thường xăm mặt, xăm mình.
Phụ nữ để tóc dài hoặc cắt ngắn, đeo nhiều vòng trang sức (chuỗi hạt
cườm ngũ sắc, hoặc vòng đồng, bạc) ở tay chân và cổ. Trước đây, phụ nữ để mình
trần, mặc váy hở, quấn quanh thân. Thân váy được xử lý mỹ thuật ở phần đầu váy
và chân váy với lối đáp các miếng vải khác màu có các sọc đen ngang đơn giản
chạy ngang. Mùa lạnh họ mang chiếc áo chui đầu, cộc tay, khoét cổ. Đây là loại
áo ngắn thân thẳng, tổng thể áo có hình gần vuông. Thân áo phía mặt trước và
sau được xử lý mỹ thuật cũng theo nguyên tắc như váy. Toàn bộ thân trước màu
sáng có đường viền đậm trên vai và gấu áo. Lưng áo được xử lý màu sáng có sọc
ngang đơn giản nửa phía dưới áo.
---ooo0ooo---
1 nhận xét:
Cho mình hỏi là tại sao con trai Brâu từ 14 đến 16 tuổi phải cưa 4 răng cửa ở hàm trên ạ và mục đích của tục lệ này là gì ạ. Em cảm ơn
Đăng nhận xét