Thứ Tư, 9 tháng 4, 2014

13. QUY Y TAM BẢO

BƯỚC VÀO CỬA PHẬT – BÀI 13
Hoằng Hữu NGUYỄN VĂN PHÚ
13. QUY Y TAM  BẢO
1. Tam Bảo là ba thứ quý báu, sách còn gọi là Ba ngôi báu, đó là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Nói rõ hơn, đó là đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Giáo pháp của ngài và đoàn thể Tăng-già.


Quy Y Tam Bảo
Chữ Phật có nghĩa là đấng giác ngộ. Thái tử Tất-Đạt-Đa từ bỏ phú quý vinh hoa, cung vàng điện ngọc, tìm đường tu hành, để rồi giác ngộ thành Phật, đó là đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni. Ngài đã ra khỏi vòng luân hồi; ngài đem những điều giác ngộ của mình dạy lại cho mọi người biết đường lối mà tu hành, ngõ hầu được giải thoát khỏi mọi khổ đau của thế gian này, trong số đó khổ đau lớn nhất là sinh tử luân hồi. Bao nhiêu ngàn năm mới có một vị Phật, cho nên  Phật là một ngôi báu, đáng tôn trọng, đáng để cho chúng ta theo về.
Pháp là những điều dạy của đức Phật. Phật chỉ dạy cho chúng ta biết con đường sáng để noi theo, theo đường ấy mà tu hành, đi đến giác ngộ, giải thoát. Phàm phu đang trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi, gặp được Phật pháp rồi nhờ đó tu hành mà được giải thoát, giống như người đang lạc trong biển cả nhờ thấy được ngọn hải đăng mà tìm về được nơi an toàn. Vì thế mới nói rằng Phật Pháp là một ngôi báu. 
Giáo Hội Tăng Già
Chữ Tăng thường có nghĩa là vị sư, nhưng ở đây, Tăng là do chữ Tăng-già nói ngắn. Đó là đoàn thể các tu sĩ Phật giáo sống trong tinh thần Lục hòa:
1/ Giới hòa đồng tu (cùng giữ giới luật, hòa thuận với nhau, tương kính), 
2/ Kiến hòa đồng giải (cùng thực hành giáo pháp của đức Phật, kiến thức hòa nhau),
3/ Lợỉ hòa đồng quân (chung hưởng vật dụng một cách hòa thụân),
4/ Thân hòa đồng trụ (trong khi ở chung, nhường nhịn nhau),
5/ Khẩu hòa vô tranh (nhường nhịn nhau về lời nói, không tranh cãi),
6/ Ý hòa đồng duyệt (vui buồn chia sẻ, kính trọng nhau, không để mích lòng).
Trong tập thể bốn vị tăng trở lên (như thế mới được gọi là tăng đoàn), sống mà giữ đúng theo tinh thần lục hòa là một việc hết sức khó khăn, thế mà tăng-già thực hành được, đó là một điều đáng quý. Hơn nữa, tự mình tu rồi, lại hướng dẫn người khác tu, thế lại là quý nữa. Vì vậy cho nên Tăng được coi là một ngôi báu.
2. Quy nghĩa là trở về, y nghĩa là nương tựa. Quy y Tam Bảo là trở về nương tựa nơi Phật, Pháp và Tăng. Tại sao nói là trở về? Thông thường, hàng ngày chúng ta sống mà luôn luôn chạy theo những ham muốn, ái dục…, vì thế chúng ta gây nghiệp, tích nghiệp nên phải trôi lăn mãi trong vòng sinh tử luân hồi. Một khi thức tỉnh để trở về nương tựạ nơi Tam Bảo, thì đấy là bước đầu trên đường tu tâm dưỡng tánh, trước hết là để sống ngay lúc này trong niềm an lạc, sau nữa là sẽ được giác ngộ và giải thoát
Quy y Tam Bảo (tức Tam Quy) chính là đặt nền móng cho việc tu giải thoát của mình.
Một Buổi Lễ Quy Y Tam Bảo
3. Điều kiện để trở thành tín đồ Phật giáo là phải quy y Tam Bảo.
Người ta phân biệt hai thứ quy y : danh tự quy y và chân thật quy y. Khi mình còn nhỏ, theo cha mẹ đến chùa lạy Phật, viếng Thày và nghe thuyết pháp, cầu vui mà làm không vì lòng tin, không vì sự cầu Đạo, đó là danh tự quy y.
Đến khi khôn lớn, nên viếng qua các chốn sơn môn; khi chọn được ông Thày có đức hạnh, bấy giờ nên chính thức thọ Tam quy. Đó là chân thật quy y.
Ngoài ra, người ta còn phân biệt  việc quy y Tam Bảo bên ngoài với việc quy y Tam Bảo tự tâm như sau đây:
4. Phật Pháp Tăng là đối tượng để chúng ta quy y.
Nguyện theo con đường Phật đã dạy là Quy y Phật. Đã quy y Phật thì hàng ngày phải nhớ nghĩ đến Phật (niệm Phật; niệm nghĩa là nhớ nghĩ), phải chiêm ngưỡng hình tượng của chư Phật, phải thực hiện đầy đủ các nghi lễ mà một Phật tử phải tuân theo.
Quyết tâm thực hành những lời chỉ dạy của đức Phật còn ghi trong kinh điển là Quy y Pháp. Hàng ngày, phải tụng kinh, niệm chú. Gặp lúc thuận tiện thì nghe thuyết pháp, nghe giảng kinh và chính mình tìm tòi nghiên cứu kinh điển; nếu không đủ hoàn cảnh thì ít nhất phải chăm niệm Phật, nhờ đó mà chặn được cái tâm lăng xăng, tránh được các tạp niệm và ác niệm. Kết quả là đầu óc sẽ minh mẫn hơn do loại trừ được các ảo tưởng, các tà kiến.
Thuận theo sự hướng dẫn tu hành của chư tăng là Quy y Tăng. Sách có nói: Kính Phật thì trọng Tăng. Trọng Tăng vì các vị đã can đảm ly gia cát ái, chấp nhận sống theo giới luật, tu hành tinh tấn, trên cầu đạo bồ đề, dưới hóa độ chúng sinh.
Quy y Tăng là quy y với những vị tăng sống đúng theo tinh thần Lục hòa. Khi một vị tăng làm lễ quy y cho một Phật tử thì vị ấy là đại diện cho cả tăng đoàn chứ không phải với tính cách cá nhân. Khi một Phật tử quy y một vị tăng thì có nghĩa là quy y tất cả chư tăng.
Quy y Tam Bảo như vừa nói trên gọi là sự quy y hay là quy y tam bảo bên ngoài.
5. Lý quy y hay quy y Tam Bảo tự tâm là thế nào ?
Đức Phật đã dạy rằng ai ai cũng có Phật tính, ai ai cũng có thể thành Phật. Phật tính đã có sẵn trong tâm chúng ta, đó chính là Phật Bảo nơi tự tâm. Tuy nhiên, do vô minh, do ái dục, do sai lầm, do tội lỗi, Phật tính trong ta đã bị che lấp, ta không biết là có. Hệt như người kia, có hạt ngọc quý giá buộc nơi chéo áo mà không biết nên vẫn phải sống cuộc đời nghèo khó. Chúng ta phải thanh lọc thân khẩu ý để cho Phật tính hiển bày, như khi mây mù tan biến thì mặt trăng ló dạng.
Trong tâm chúng ta, có sẵn lòng từ, lòng bi, đó chính là Pháp Bảo nơi tự tâm. Chúng ta hãy cố gắng thực hành các đức đó.
Trong tâm chúng ta có sẵn khuynh hướng tìm sự thanh tịnh cho bản thân, mong mỏi hòa hợp với mọi người, đó là vị Thày trong ta, đó chính là Tăng Bảo nơi tự tâm.
Nhờ Phật Bảo bên ngoài, chúng ta đánh thức Phật tính của mình, trở về nương tựa nơi Phật tính của mình. Đó chính là Quy y Phật nơi tự tâm.
Nhờ Pháp Bảo bên ngoài, chúng ta dấy khởi lòng từ bi đối với chúng sinh, trở về nương tựa nơi lòng từ bi của mình. Đó chính là Quy y Pháp nơi tự tâm.
Do chư Tăng bên ngoài gợi lại cho chúng ta có tinh thần hòa hợp thuần thảo, trở về với tinh thần hòa hợp thuận thảo của mình là Quy y Tăng nơi tự tâm.
Khi chúng ta nghe nói Quy y Phật tánh, Quy y Pháp tánh, Quy y Tăng tánh, là nói về ý Quy y Tam Bảo tự tâm trên đây.
Phật Pháp Tăng bên ngoài là trợ duyên giúp chúng ta phát khởi Phật Pháp Tăng của tự tâm. Tam Bảo bên ngoài chỉ là trợ duyên, còn bản thân người Phật tử phải cố gắng đánh thức Tam Bảo của mình để tu ngõ hầu được giác ngộ và giải thoát,
Chỉ biết có Tam Bảo bên ngoài là chấp sự bỏ lý. Chỉ tin vào Tam Bảo tự tâm là chấp lý bỏ sự. Phải viên dung cả lý lẫn sự mới là đúng.
6. Khi đã quy y Tam Bảo thì người Phật tử phải rứt khoát xác định rõ lập trường như sau này:     
“Quy y Phật, không quy y Thiên, Thần, Quỷ, Vật”. Phật là đấng giác ngộ, chúng ta quyết tâm theo Phật. Thiên, Thần, Quỷ chỉ là chúng sinh, chưa hết nghiệp báo, còn chịu luân hồi như chúng ta, cho nên chúng ta chẳng cần theo mà nương tựa.
“Quy y Pháp, không quy y ngoại đạo tà giáo”. Phật pháp là chánh pháp, là chân lý, là con đường sáng để noi theo mà đạt quả giải thoát, giải thoát khỏi mọi khổ đau, giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Cầu chân lý nơi Phật pháp là đủ; tà giáo làm chia trí, giảm lòng tin, gây nghi kỵ, những đều ấy làm trở ngại việc tu hành.
“Quy y Tăng, không quy y bạn dữ, nhóm ác”. Đã chọn các vị hạnh cao đức trọng để nương theo, nhờ đó tu hành đúng đường do Phật chỉ, chúng ta cần xa lánh những bạn dữ, nhóm ác, là những thứ có thể làm hại chúng ta về nhiều mặt, vì ai cũng biết “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.
7. Khi muốn quy y Tam Bảo thì đến chùa để hỏi xem có dịp nào tổ chức lễ quy y Tam Bảo không. Thường thường các chùa hay tổ chức lễ quy y Tam Bảo vào các ngày lễ lớn, như lễ Phật Đản, lễ Vu Lan … Trong buổi lễ, Phật tử quỳ trước Tam Bảo, phát nguyện (3 lần): “Đệ tử (tên là) xin suốt đời quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”. Đây là câu phát nguyện với tất cảtâm thành và lòng tự giác, của mình , không ai bắt buộc.
Nghi thức long trọng, trang nghiêm của buổi lễ Tam Quy là trợ duyên cho lời phát nguyện của Phật tử được viên mãn, làm cho Phật tử nhớ lâu, trong tâm thức được gieo chủng tử tốt, sau nhờ tinh tấn tu hành mà các chủng tử ấy đơm hoa kết trái.
Tam Quy là bước đầu trên đường học Phật, là nền móng của công phu tu tập. Bước đầu cần phải đúng hướng, nền móng cần phải vững vàng. Phật Pháp Tăng giúp chúng ta đi đúng hướng, xây móng vững vàng.
Khi đã thành tâm quy y Tam Bảo, chính thức trở thành một tín đồ Phật giáo, thì phải ăn ở, làm việc, cư xử, tu tập đúng tinh thần Phật giáo và nên biết rằng:
Quy y Phật, không đọa địa ngục, Quy y Pháp, không đọa ngạ quỷ, Quy y Tăng, không đọa súc sinh.
---ooo0ooo--- 

































































































































Quy Y Tam Bảo

Chữ Phật có nghĩa là đấng giác ngộ. Thái tử Tất-Đạt-Đa từ bỏ phú quý vinh hoa, cung vàng điện ngọc, tìm đường tu hành, để rồi giác ngộ thành Phật, đó là đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni. Ngài đã ra khỏi vòng luân hồi; ngài đem những điều giác ngộ của mình dạy lại cho mọi người biết đường lối mà tu hành, ngõ hầu được giải thoát khỏi mọi khổ đau của thế gian này, trong số đó khổ đau lớn nhất là sinh tử luân hồi. Bao nhiêu ngàn năm mới có một vị Phật, cho nên  Phật là một ngôi báu, đáng tôn trọng, đáng để cho chúng ta theo về.

Không có nhận xét nào: