BƯỚC VÀO CỬA PHẬT
Hoằng Hữu NGUYỄN VĂN PHÚ
24.
NHẤT ĐẠI SỰ
1. Nhất đại sự của phàm nhân.
“Chư
Phật chỉ vì nhân duyên một việc lớn mà xuất hiện ở đời”. Việc lớn này là việc gì? Là sự nghiệp “khai thị ngộ nhập Phật tri
kiến”, tức là mở bày cho thấy mà vào
Phật tánh. Cái lớn là tri kiến Phật, là
Phật tánh, là thực tướng, hay không tướng.
Đối với con người thì
nhất đại sự là chuyện sinh tử. Người tu
Phật nhằm tự giải thoát ra khỏi cái nghiệp sinh tử luân hồi. Đức Phật chỉ cho ta con đường giải thoát,
được hay không là do chúng ta.
Phàm phu chúng ta lúc
nào cũng bị vấn đề sinh tử ám ảnh, nói rõ ra ai cũng tham sống sợ chết. Các vị đắc đạo hiểu rõ “đủ duyên thì sanh,
hết duyên thì tử”, cuộc đời chỉ là huyễn hóa, ảo mộng. “Sinh như đắp chăn bông, tử như cởi áo hạ”.
2. Chúng ta từ đâu tới?
Nhờ kinh Khởi Thế Nhân
Bản (kinh Trường Bộ, tập 4, kinh số 4), chúng ta biết rằng con người gốc gác từ
những chúng sinh từ cõi trời Quang Âm Thiên thác sanh qua trái đất này. Mới đầu do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự
chiếu hào quang ... Dần dần, sống bằng đất, vị như mật ong thuần tịnh, rồi bằng
nấm. Thiện ác nẩy ra. Có cỏ, cây leo, lúa mọc ra, bị cắt nhiều quá
không lớn được. Rồi tham lam, nói láo,
đánh cắp, tức giận ... xuất hiện. Phải
chọn người cầm đầu, khởi lên giới vực xã hội ...
Tóm lại, tổ tiên chúng
ta đến từ một thế giới khác. Nếu hỏi “Ai
sinh ra các chúng sinh đó?” thì không có câu trả lời. Phật giáo không đề cập đến một “nguyên nhân
đầu tiên” vì nếu nói đến điều ấy thì một câu hỏi khác bật ra ngay: “Trước cái
nguyên nhân đó là cái gì?”. Vì đạo Phật
không nói đến một Đấng Sáng Tạo nên có người cho rằng đạo Phật là “vô thần”, về
điều này chúng ta sẽ thảo luận trong một bài khác.
3. Khoa học nói gì về trái đất và con người?
▪ 15 tỉ năm trước đây,
có “tiếng nổ lớn” big bang.
▪ 4.7 tỉ năm trước: Trái
đất mới đầu là một quả cầu lửa, nguội dần, vỏ đặc lại. Hơi gặp lạnh đọng lại, rơi xuống thành
mưa. Chỉ có một đại châu và một đại
dương duy nhất, tình trạng này kéo dài 4.5 tỉ năm. Có mưa, có sông ngòi, có soi mòn và lắng
đọng.
▪ 3 tỉ năm trước: có
sinh vật đơn bào (1 tế bào, unicellulaire).
▪ 1 tỉ năm trước: có
sinh vật đa bào, đa bào có đuôi.
▪ 500 triệu năm trước:
có loài bò sát khổng lồ, rêu biển, cây, loài lưỡng thể (amphibie), các loài bò
sát biết bay.
▪ 200 triệu năm trước:
loài có vú.
▪ Khoảng 70 đến 25 triệu
năm trước: con proconsul.
▪ 15 triệu năm trước,
con proconsul cho ra hai nhánh: dryopithecus ( xuống đến khỉ) và ramapithecus
(xuống đến người). Sau đây, nói tiếp về ramapithecus:
▪ Khoảng 2 đến 1 triệu
năm trước: Homo habilis. [khéo] (homo =
“ngợm”!)
▪ 700 ngàn năm trước
: Homo erectus. [đứng]
▪ 100 ngàn năm
trước Homo sapiens. [khôn]
▪ 60 ngàn năm trước Homo sapiens sapiens
[khôn khôn]
▪ 10 ngàn năm trước Người.
▪ 10.000 – 60.000 năm
trước canh nông.
▪ 5000 năm trước chữ viết.
▪ 2000 năm trước đồ
đồng.
▪ 1000 năm trước Tây lịch đồ sắt.
4. Sinh.
Phật giáo quan niệm có 4
cách sinh:
1/ thai sinh, sinh bằng
bào thai từ dạ của mẹ (người, trâu, bò,...)
2/ noãn sinh, sinh bằng
trứng ( chim, rắn, rùa, ...)
3/ thấp sinh, sinh ở nơi
ẩm thấp (cá, muỗi, ruồi...)
4/ hóa sinh, sinh do
biến hóa, hoàn toàn do nghiệp lực (chư
thiên, ngạ quỷ, tội đồ địa ngục, hoặc chúng sinh của một thế giới tân
tạo).
Một câu hỏi: Lập trường của Phật giáo đối với vấn đề phá
thai ra sao? - Không tán thành phá thai
vì phá thai là sát sinh, phạm giới cấm thứ nhất của đạo Phật. Nhưng ngừa thai
thì được.
Khoa học nay nói thêm
đến các cách sinh sau đây:
1/ sự thụ thai nhờ tinh
trùng của người khác (IAD: insémination avec donneur).
2/ tạo bào thai trong
ống nghiệm (FIV: fécondation in vitro).
3/ tạo bào thai trong
ống nghiệm với sự chuyển phôi châu tức embryon (FIVATE: fécondation in vitro
avec transfert d’embryon).
4/ cloning, clonage, tạo
ra một sinh vật từ một sinh vật khác không do thụ thai. Người ta dùng chữ nhân
bản để dịch chữ cloning.
Đây là mấy vấn đề lớn,
chúng ta hãy cùng nhau thảo luận. Một
vấn nạn: thần thức nhập vào thai lúc nào?
Cách đây 25, 26 thế kỷ, không có những vấn đề này!
5. Không có Ta (vô ngã).
Thân và tâm tức là sắc
và danh là hai thành phần của con người, nói rõ hơn, con người là hợp thể của
ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức).
Thân do duyên hợp của tứ
đại là đất nước gió lửa, là một hợp thể, nó không có tự thể vì phải dựa vào
những cái khác mà thành. Thân lại không
thường hằng, làm sao có thể bảo nó là cái Ta thực sự được! Tâm thay đổi từng phút, từng giây, từng
sát-na, nên cũng không thể gọi nó là cái Ta thực sự được. Vì thế, Phật giáo đưa
ra lý thuyết vô ngã, không có Ta. Trên đời này, không có cái Ta thật sự, chỉ có
cái Ta quy ước, nghĩa là cái Ta tạm gọi trong đời sống gia đình, cộng đồng và
xã hội mà thôi. Đạo Phật không hề phủ
nhận cái Ta đó. Cái Ta đó có đấy, nhưng
mà là giả có, nó là huyễn. Đừng phá hủy
nó, mà cũng đừng nuông chiều nó, nó chính
là phương tiện để tu. Sáu căn là
gốc của tội lỗi nhưng cũng là phương tiện để tu. Đời như huyễn, tu cũng như
huyễn.
Trên thực tế, người tu
Phật phải quán chiếu tính cách vô ngã của mình, từ đó bớt dần tham sân si mạn
và mở rộng lòng đối với muôn loài.
6. Chết.
Ta vẫn nghe nói “sinh ký
tử quy” nghĩa là “sống gửi chết về”.
Sống là ở tạm cõi này, chết là về.
Nhưng về đâu? Đạo Phật trả lời:
Có sinh là phải có tử, tử rồi tái sinh.
Sinh tử, tử sinh, cứ thế mãi, y hệt như sóng nhô lên rồi hụp xuống rồi
lại nhô lên ... Tuy vậy, có thể chấm dứt luân hồi nhờ tu giải thoát, giải thoát
khỏi cái nghiệp sinh tử luân hồi. Lúc đó
trở thành bậc thánh: thanh văn, duyên giác, bồ-tát, Phật. Vậy thì chuỗi sinh tử
tuy “vô thủy” mà có thể “hữu chung”.
Luân hồi thì qua một trong sáu đường: 3 đường lành là thiên, nhân,
a-tu-la, 3 đường ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.
Cái
gì gây ra luân hồi? Cái nghiệp. Thân, khẩu, ý gây ra
nghiệp. Nghiệp vô hình chứa trong kho vô
hình, gọi là tạng thức hay a-lại-da.
Nghiệp vô hình nhưng sức rất mạnh gọi là nghiệp lực. Nghiệp lực thúc đẩy đi tái sinh (thường gọi là đi đầu thai). Trong cái lực này có hai yếu tố mạnh là ái dục
và ý chí muốn sống. Cái gì đi tái
sinh? Tạng thức chứa cái nghiệp đi tái
sinh, được gọi là thần thức. Lúc chết rồi, người ta hay gọi là vong linh hay
hương linh. Rất ít khi dùng chữ hồn,
linh hồn, e hiểu lầm rằng hồn là thứ thường hằng bất biến. Những vị đã đến hàng thánh thì lúc chết sẽ đi
ngay. Những kẻ tội nặng phải đọa địa
ngục cũng đi ngay. Các trường hợp khác
phải mang thân trung ấm, đợi tối đa 49 ngày sẽ tùy nghiệp mà đi tái sinh.
(Gọi là thân trung ấm
nhưng nó vô hình. Trước khi chết, có
thân tiền ấm. Tái sinh rồi, có thân hậu
ấm. Thân tiền ấm và thân hậu ấm thì hữu
hình).
Các bậc thánh đi về đâu?
Không thể nói “tái sinh làm thánh” vì phiền não hết rồi thì làm gì còn điều
kiện tái sinh. Không thể nói “trở thành
hư vô” vì có cái gì đâu để mà xóa cho thành hư vô. Các bậc thánh chứng ngộ Niết-bàn nghĩa là hết
tham sân si, hết cái ta, hết luân hồi.
Niết-Bàn là một trạng thái của tâm, không phải là một nơi chốn. Có thể nói: Nhập Niết-bàn là hòa vào bản thể
vũ trụ! Đó là nói vậy thôi chứ chúng ta đâu đã vào cõi tuyệt đối.
Vấn
đề tự tử.
Đạo Phật không tán thành tự tử.
Đành rằng đời là bể khổ nhưng không thể chấm dứt đau khổ bằng cách tự
tử. Tại sao? Vì cái nghiệp còn y nguyên đó, tự tử không
xóa được. Vừa tự tử xong là chuẩn bị tái
sinh, không thể tránh được. Đã thế cái
cận tử nghiệp lại nặng chĩu những chán chường, oán hận, đau buồn, lo lắng ...
đẩy thần thức vào những nẻo ác.
Vấn
đề trợ tử.
Ít lâu nay, chúng ta nghe nói đến trợ tử, nghĩa là giúp cho những người
bị bệnh quá hiểm nghèo, sống không ra sống, chết không ra chết, được chết bình
an. Lập trường của đạo Phật thế
nào? Đau đớn là do cái nghiệp, con người
không thể tránh cái nghiệp được, cắt nó lúc này thì kiếp sau nó lại còn
đó. Vì thế đạo Phật dạy nên giúp người
bệnh nặng bằng sự săn sóc, sự an ủi, giảng kinh, dạy niệm Phật, đồng thời tụng
kinh hồi hướng công đức đến người bệnh.
Sức mạnh tinh thần có thể làm cho bệnh nhân bớt đau đớn. Khổ một nỗi, người bệnh còn biết gì đâu. Vì thế gia đình phải chuẩn bị sớm.
7. Kết luận.
1/ Ta là gì? là hợp thể
danh và sắc. Ta có, nhưng là giả có.
Cái “ta xã hội” vẫn có, “cái ta để tu hành” vẫn có.
2/ Ta từ đâu tới? Từ cha, mẹ và
nghiệp lực của mọi đời trước.
3/ Có bắt buộc cắn răng chịu đựng nghiệp dữ không? Không!
Tạo nghiệp lành và chí thành sám hối để ngăn nghiệp dữ, như đắp đê ngăn
lụt vậy.
4/ Chết rồi đi đâu? Đi tái
sinh. Các bậc thánh “lên” Niết-bàn.
5/ Có thể thoát sinh tử luân hồi không?
Có. Một là tu thành thánh, hai là
theo pháp môn niệm Phật cầu vãng sinh về cõi Tịnh độ của đức Phật A-Di-Đà, lên
đấy để tu.
6/ Tu giải thoát thế nào? Phước và huệ, phải đầy đủ cả hai.
7/ Khó quá, tu không nổi! Cần có
tự tín và kiên nhẫn, Phật tánh có sẵn ngay trong ta. Long Nữ, thân gái, thân
rồng, 8 tuổi, đã thành Phật trong nháy mắt!
------ooo0ooo------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét