Thứ Hai, 21 tháng 4, 2014

NHẤT ĐẠI SỰ

BƯỚC VÀO CỬA PHẬT
Hoằng Hữu NGUYỄN VĂN PHÚ

24. NHẤT ĐẠI SỰ 
1.  Nhất đại sự của phàm nhân.
Chư Phật chỉ vì nhân duyên một việc lớn mà xuất hiện ở đời”.  Việc lớn này là việc gì?  Là sự nghiệp “khai thị ngộ nhập Phật tri kiến”, tức là mở  bày cho thấy mà vào Phật tánh.  Cái lớn là tri kiến Phật, là Phật tánh, là thực tướng, hay không tướng.
Đối với con người thì nhất đại sự là chuyện sinh tử.  Người tu Phật nhằm tự giải thoát ra khỏi cái nghiệp sinh tử luân hồi.  Đức Phật chỉ cho ta con đường giải thoát, được hay không là do chúng ta.

Phàm phu chúng ta lúc nào cũng bị vấn đề sinh tử ám ảnh, nói rõ ra ai cũng tham sống sợ chết.  Các vị đắc đạo hiểu rõ “đủ duyên thì sanh, hết duyên thì tử”, cuộc đời chỉ là huyễn hóa, ảo mộng.  “Sinh như đắp chăn bông, tử như cởi áo hạ”.
2.  Chúng ta từ đâu tới?
Nhờ kinh Khởi Thế Nhân Bản (kinh Trường Bộ, tập 4, kinh số 4), chúng ta biết rằng con người gốc gác từ những chúng sinh từ cõi trời Quang Âm Thiên thác sanh qua trái đất này.  Mới đầu do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang ... Dần dần, sống bằng đất, vị như mật ong thuần tịnh, rồi bằng nấm.  Thiện ác nẩy ra.  Có cỏ, cây leo, lúa mọc ra, bị cắt nhiều quá không lớn được.  Rồi tham lam, nói láo, đánh cắp, tức giận ... xuất hiện.  Phải chọn người cầm đầu, khởi lên giới vực xã hội ...

Tóm lại, tổ tiên chúng ta đến từ một thế giới khác.  Nếu hỏi “Ai sinh ra các chúng sinh đó?” thì không có câu trả lời.  Phật giáo không đề cập đến một “nguyên nhân đầu tiên” vì nếu nói đến điều ấy thì một câu hỏi khác bật ra ngay: “Trước cái nguyên nhân đó là cái gì?”.  Vì đạo Phật không nói đến một Đấng Sáng Tạo nên có người cho rằng đạo Phật là “vô thần”, về điều này chúng ta sẽ thảo luận trong một bài khác. 
3.  Khoa học nói gì về trái đất và con người?
▪ 15 tỉ năm trước đây, có “tiếng nổ lớn” big bang.
▪ 4.7 tỉ năm trước: Trái đất mới đầu là một quả cầu lửa, nguội dần, vỏ đặc lại.  Hơi gặp lạnh đọng lại, rơi xuống thành mưa.  Chỉ có một đại châu và một đại dương duy nhất, tình trạng này kéo dài 4.5 tỉ năm.  Có mưa, có sông ngòi, có soi mòn và lắng đọng.
▪ 3 tỉ năm trước: có sinh vật đơn bào (1 tế bào, unicellulaire).
▪ 1 tỉ năm trước: có sinh vật đa bào, đa bào có đuôi.
▪ 500 triệu năm trước: có loài bò sát khổng lồ, rêu biển, cây, loài lưỡng thể (amphibie), các loài bò sát biết bay.
▪ 200 triệu năm trước: loài có vú.

▪ Khoảng 70 đến 25 triệu năm trước: con proconsul.
▪ 15 triệu năm trước, con proconsul cho ra hai nhánh: dryopithecus ( xuống đến khỉ) và ramapithecus (xuống đến  người).  Sau đây, nói tiếp về ramapithecus:
▪ Khoảng 2 đến 1 triệu năm trước: Homo habilis. [khéo]  (homo = “ngợm”!)
▪ 700 ngàn năm trước :  Homo erectus. [đứng]
▪ 100 ngàn năm trước                    Homo sapiens. [khôn]
▪ 60 ngàn năm trước                      Homo sapiens sapiens [khôn khôn]
▪ 10 ngàn năm trước                      Người.
▪ 10.000 – 60.000 năm trước           canh nông.
▪ 5000 năm trước                            chữ viết.
▪ 2000 năm trước                            đồ đồng.

▪ 1000 năm trước Tây lịch               đồ sắt.
4.  Sinh.
Phật giáo quan niệm có 4 cách sinh: 
1/ thai sinh, sinh bằng bào thai từ dạ của mẹ (người, trâu, bò,...)  
2/ noãn sinh, sinh bằng trứng ( chim, rắn, rùa, ...)  
3/ thấp sinh, sinh ở nơi ẩm thấp (cá, muỗi, ruồi...)   
4/ hóa sinh, sinh do biến hóa, hoàn toàn do nghiệp lực  (chư thiên, ngạ quỷ, tội đồ địa ngục, hoặc chúng sinh của một thế giới tân tạo). 
Một câu hỏi:  Lập trường của Phật giáo đối với vấn đề phá thai ra sao?  - Không tán thành phá thai vì phá thai là sát sinh, phạm giới cấm thứ nhất của đạo Phật. Nhưng ngừa thai thì được.
Khoa học nay nói thêm đến các cách sinh sau đây:
1/ sự thụ thai nhờ tinh trùng của người khác (IAD: insémination avec donneur).   
2/ tạo bào thai trong ống nghiệm (FIV: fécondation in vitro).   
3/ tạo bào thai trong ống nghiệm với sự chuyển phôi châu tức embryon (FIVATE: fécondation in vitro avec transfert d’embryon).  
4/ cloning, clonage, tạo ra một sinh vật từ một sinh vật khác không do thụ thai. Người ta dùng chữ nhân bản để dịch chữ cloning.

Đây là mấy vấn đề lớn, chúng ta hãy cùng nhau thảo luận.  Một vấn nạn: thần thức nhập vào thai lúc nào?  Cách đây 25, 26 thế kỷ, không có những vấn đề này!
5.  Không có Ta (vô ngã).
Thân và tâm tức là sắc và danh là hai thành phần của con người, nói rõ hơn, con người là hợp thể của ngũ uẩn (sắc, thọ,  tưởng, hành, thức).
Thân do duyên hợp của tứ đại là đất nước gió lửa, là một hợp thể, nó không có tự thể vì phải dựa vào những cái khác mà thành.  Thân lại không thường hằng, làm sao có thể bảo nó là cái Ta thực sự được!  Tâm thay đổi từng phút, từng giây, từng sát-na, nên cũng không thể gọi nó là cái Ta thực sự được. Vì thế, Phật giáo đưa ra lý thuyết vô ngã, không có Ta. Trên đời này, không có cái Ta thật sự, chỉ có cái Ta quy ước, nghĩa là cái Ta tạm gọi trong đời sống gia đình, cộng đồng và xã hội mà thôi.  Đạo Phật không hề phủ nhận cái Ta đó.  Cái Ta đó có đấy, nhưng mà là giả có, nó là huyễn.  Đừng phá hủy nó, mà cũng đừng nuông chiều nó, nó chính  là phương tiện để tu.  Sáu căn là gốc của tội lỗi nhưng cũng là phương tiện để tu. Đời như huyễn, tu cũng như huyễn.

Trên thực tế, người tu Phật phải quán chiếu tính cách vô ngã của mình, từ đó bớt dần tham sân si mạn và mở rộng lòng đối với muôn loài.
6.  Chết.

Ta vẫn nghe nói “sinh ký tử quy” nghĩa là “sống gửi chết về”.  Sống là ở tạm cõi này, chết là về.  Nhưng về đâu?  Đạo Phật trả lời: Có sinh là phải có tử, tử rồi tái sinh.  Sinh tử, tử sinh, cứ thế mãi, y hệt như sóng nhô lên rồi hụp xuống rồi lại nhô lên ... Tuy vậy, có thể chấm dứt luân hồi nhờ tu giải thoát, giải thoát khỏi cái nghiệp sinh tử luân hồi.  Lúc đó trở thành bậc thánh: thanh văn, duyên giác, bồ-tát, Phật. Vậy thì chuỗi sinh tử tuy “vô thủy” mà có thể “hữu chung”.  Luân hồi thì qua một trong sáu đường: 3 đường lành là thiên, nhân, a-tu-la, 3 đường ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.
Cái gì gây ra luân hồi? Cái nghiệp. Thân, khẩu, ý gây ra nghiệp.  Nghiệp vô hình chứa trong kho vô hình, gọi là tạng thức hay a-lại-da.  Nghiệp vô hình nhưng sức rất mạnh gọi là nghiệp lực.  Nghiệp lực thúc đẩy đi tái sinh  (thường gọi là đi đầu thai).  Trong cái lực này có hai yếu tố mạnh là ái dục và ý chí muốn sống.  Cái gì đi tái sinh?  Tạng thức chứa cái nghiệp đi tái sinh, được gọi là thần thức. Lúc chết rồi, người ta hay gọi là vong linh hay hương linh.  Rất ít khi dùng chữ hồn, linh hồn, e hiểu lầm rằng hồn là thứ thường hằng bất biến.  Những vị đã đến hàng thánh thì lúc chết sẽ đi ngay.  Những kẻ tội nặng phải đọa địa ngục cũng đi ngay.  Các trường hợp khác phải mang thân trung ấm, đợi tối đa 49 ngày sẽ tùy nghiệp mà đi tái sinh.
(Gọi là thân trung ấm nhưng nó vô hình.  Trước khi chết, có thân tiền ấm.  Tái sinh rồi, có thân hậu ấm.  Thân tiền ấm và thân hậu ấm thì hữu hình).

Các bậc thánh đi về đâu? Không thể nói “tái sinh làm thánh” vì phiền não hết rồi thì làm gì còn điều kiện tái sinh.  Không thể nói “trở thành hư vô” vì có cái gì đâu để mà xóa cho thành hư vô.  Các bậc thánh chứng ngộ Niết-bàn nghĩa là hết tham sân si, hết cái ta, hết luân hồi.  Niết-Bàn là một trạng thái của tâm, không phải là một nơi chốn.  Có thể nói: Nhập Niết-bàn là hòa vào bản thể vũ trụ! Đó là nói vậy thôi chứ chúng ta đâu đã vào cõi tuyệt đối.
Vấn đề tự tử.  Đạo Phật không tán thành tự tử.  Đành rằng đời là bể khổ nhưng không thể chấm dứt đau khổ bằng cách tự tử.  Tại sao?  Vì cái nghiệp còn y nguyên đó, tự tử không xóa được.  Vừa tự tử xong là chuẩn bị tái sinh, không thể tránh được.  Đã thế cái cận tử nghiệp lại nặng chĩu những chán chường, oán hận, đau buồn, lo lắng ... đẩy thần thức vào những nẻo ác.

Vấn đề trợ tử.  Ít lâu nay, chúng ta nghe nói đến trợ tử, nghĩa là giúp cho những người bị bệnh quá hiểm nghèo, sống không ra sống, chết không ra chết, được chết bình an.  Lập trường của đạo Phật thế nào?  Đau đớn là do cái nghiệp, con người không thể tránh cái nghiệp được, cắt nó lúc này thì kiếp sau nó lại còn đó.  Vì thế đạo Phật dạy nên giúp người bệnh nặng bằng sự săn sóc, sự an ủi, giảng kinh, dạy niệm Phật, đồng thời tụng kinh hồi hướng công đức đến người bệnh.  Sức mạnh tinh thần có thể làm cho bệnh nhân bớt đau đớn.  Khổ một nỗi, người bệnh còn biết gì đâu.  Vì thế gia đình phải chuẩn bị sớm.
7.  Kết luận. 
1/ Ta là gì? là hợp thể danh và sắc.  Ta có, nhưng là giả có.  Cái “ta xã hội” vẫn có, “cái ta để tu hành” vẫn có.
2/ Ta từ đâu tới?  Từ cha, mẹ và nghiệp lực của mọi đời trước.
3/ Có bắt buộc cắn răng chịu đựng nghiệp dữ không?  Không!  Tạo nghiệp lành và chí thành sám hối để ngăn nghiệp dữ, như đắp đê ngăn lụt vậy.
4/ Chết rồi đi đâu?  Đi tái sinh.  Các bậc thánh “lên” Niết-bàn.
5/ Có thể thoát sinh tử luân hồi không?  Có.  Một là tu thành thánh, hai là theo pháp môn niệm Phật cầu vãng sinh về cõi Tịnh độ của đức Phật A-Di-Đà, lên đấy để tu.
6/ Tu giải thoát thế nào? Phước và huệ, phải đầy đủ cả hai.
7/ Khó quá, tu không nổi!  Cần có tự tín và kiên nhẫn, Phật tánh có sẵn ngay trong ta. Long Nữ, thân gái, thân rồng, 8 tuổi, đã thành Phật trong nháy mắt!

------ooo0ooo------

Không có nhận xét nào: