BƯỚC
VÀO CỬA PHẬT
Hoằng Hữu NGUYỄN VĂN PHÚ
27.
TÁC Ý VÀ
NGHIỆP
Con người ta có sáu căn là : mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân và ý. Năm căn đầu thuộc về vật chất (tức là sắc). Căn thứ sáu
thuộc về tinh thần, chỉ có tên mà không thấy được (tức là danh). Sáu căn còn có
tên là : nhãn căn, nhĩ căn, tị căn, thiệt căn, thân căn và ý căn.
Sáu căn ấy ứng với sáu trần là : sắc,
thanh, hương, vị, xúc và pháp. Sáu trần còn gọi là nhãn trần, thanh trần, hương
trần, vị trần, xúc trần và pháp trần. Chữ pháp ở đây có nghĩa là những đối tượng
của ý : đó là các ý nghĩ, tư tưởng, hồi tưởng, suy tính, tưởng tượng ..
Sáu căn tiếp xúc với sáu trần tương ứng,
gây nên sự xúc chạm trong tâm, phát sinh sáu thức tức là sự hay biết, gồm có :
nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.
Sáu căn và sáu trần gọi chung là 12 xứ.
Thêm sáu thức vào thì gọi chung là 18 giới.
Sơ đồ trên đây cho chúng ta biết : sắc
(sắc trần = hình dạng, màu sắc) duyên với mắt (nhãn căn) làm phát sinh nhãn thức
tức sự biết của mắt vv...
Tại sao cần tìm hiểu sáu căn? Vì chúng
luôn luôn tiếp nhận các dữ kiện từ môi trường xung quanh, chúng là khởi điểm,
chúng là gốc của mọi hoạt động trong cuộc sống của con người.
Mắt tiếp nhận hình ảnh, màu sắc, ta thấy
hình ảnh, màu sắc rồi từ đó sinh ra lòng yêu thích hay ghét bỏ. Yêu thích thì nảy
ra tham dục, muốn chiếm cho mình. Ghét bỏ thì muốn tránh, muốn diệt ... Tương tự
với tai, mũi, lưỡi, thân.
Rồi ý tiếp nhận pháp, nảy ra ý tưởng
nhanh như điện chớp, óc luôn luôn tính toán, lập kế, bày mưu, tìm lời tranh
cãi, kiếm mẹo ăn thua ... Rút lại chỉ mong hơn người, cái ta thật là lớn.
Nhưng chúng ta phải hết sức chú ý đến
điều này : Khi các trần tác động vào các căn, nói khác đi là các trần duyên với
các căn và có sự hay biết (thức) thì các phản ứng của chúng ta tiếp theo sự hay
biết đó mới là quan trọng, Các phản ứng ấy gọi là tác ý.
Tác ý của mỗi con người trước một sự
việc không giống nhau. Việc này tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố : giáo dục gia
đình, giáo dục ở trường, khung cảnh xã hội, ảnh hưởng tôn giáo, phong tục tập
quán, thói quen và nghiệp cũ. Điều đáng nói là thói quen.
Do tác ý mà có hành động của thân, khẩu,
ý từ đó sinh ra ba nghiệp : thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Đức Phật đã dạy:
“Tác ý chính là nghiệp”. Thật là rõ ràng và gọn! Trong Tăng Chi Bộ Kinh (Chương
Sáu Pháp, phẩm Đáng được cung kính ), đức
Phật dạy rằng :
“ Này các tỳ kheo, hãy thực tập sáu pháp vô thượng. Những gì là sáu?
Mắt thấy sắc, không ưa, không ghét –
quân bình, chánh niệm, tỉnh giác.
Tai nghe tiếng, không ưa, không ghét –
quân bình, chánh niệm, tỉnh giác.
Mũi ngửi mùi, không ưa, không ghét –
quân bình, chánh niệm, tỉnh giác.
Lưỡi nếm vị, không ưa, không ghét –
quân bình, chánh niệm, tỉnh giác.
Thân chạm xúc, không ưa, không ghét –
quân bình, chánh niệm, tỉnh giác.
Ý đối với pháp, không ưa, không ghét –
quân bình, chánh niệm, tỉnh giác.
Ai thành tựu sáu pháp ấy, xứng đáng
cho chư thiên và nhân loại tôn trọng, cung kính, cúng dường, là phước điền vô
thượng ở đời ”.
Chúng ta được biết câu Đối cảnh vô tâm, mạc vấn thiền nghĩa là:
Đứng trước cảnh mà không động tâm thì còn hỏi thiền làm gì, ý nói nếu tu mà đạt
được mức đối cảnh vô tâm thì chẳng cần phải học cách tu thiền nữa.
Sáu trần tạo duyên cho tâm chạy lăng
xăng. Chạy theo cảnh là tâm động, không chạy theo cảnh là tâm an.. Vậy, muốn
hàng phục tâm, thì đừng vướng mắc vào sáu trần, chỉ ghi nhận trung thực trong
thái độ buông xả, mà không phán xét, không thêu dệt. Mục tiêu của phép tu này
là diệt tham sân si!
Một câu hỏi được đặt ra : tôi sống
trong gia đình, trong xã hội, nếu đối cảnh mà cứ vô tâm, thế thì hóa ra tôi
không còn cảm xúc gì nữa, giống như cỏ cây gỗ đá mất! Vô tâm không có nghĩa là
không có tâm, vô tình, mặc kệ, mà là không bị dính mắc, không bị lôi cuốn vào,
không chạy theo.
Tu đến mức vô tâm ấy thì không phải là gỗ đá đâu, mà đầy
từ bi hỷ xả. Bậc thấp thì có tác ý nhưng là tác ý hoàn toàn thiện. Nghiệp gây
ra là nghiệp thiện. Bậc cao thì tác ý do từ bi hỷ xả. Đó là các bậc la-hán
không còn gây nghiệp nữa.
Có một thắc mắc là: khó thực hành quá,
tôi không theo được! Chúng ta phải thú nhận: thật là khó, bao nhiêu thứ chằng
chịt trói buộc chúng ta mất rồi, vùng thoát ra khó nổi! Tuy vậy, đã tu là phải
tập, nói tập là nói lâu dài, kiên nhẫn. Sách nói : tu nhiều kiếp.
Xin đề nghị: đứng trước cảnh thì chưa
nên phản ứng ngay, chưa nên có tác ý ngay. Ta tự hỏi : cái gì đây, thiện hay
ác? Rồi sau mới quyết định.
Một bà già mất con dao, nghi cho thằng
bé nhà hàng xóm. Từ đó, bà ta ghét nó, thấy nó gian giảo, hư đốn. Một hôm, dọn
bếp, bà ta tìm thấy con dao. Biết rằng mình nghi oan cho thằng bé, bà lại thấy
nó ngoan ngoãn, đáng yêu ... Tác ý của bà già vội vàng quá, thiếu suy xét. Rút
kinh nghiệm: trước cảnh, lắm khi tác ý của chúng ta sai lầm. Phản ứng của chúng
ta căn cứ trên những thiếu sót hay nhửng sai lầm.
Năng đi chùa, chịu tu tập, chăm học
kinh nghe giảng, chúng ta dần dần sẽ trầm tĩnh hơn và hy vọng một ngày kia sẽ đối
cảnh vô tâm.
(Dựa theo bài Đối cảnh vô tâm ngày 27-8-05 của Sư Thiện Hiền).
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét