BƯỚC VÀO CỬA PHẬT
Hoằng Hữu NGUYỄN VĂN PHÚ
26. NGŨ UẨN
Tất cả chúng ta đều
thuộc làu Bát-nhã tâm kinh, với câu đầu
như sau: “Quán tự tại bồ-tát hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất
thiết khổ ách”. Nghĩa là: “Khi ngài Quán tự tại bồ-tát thực hành sâu xa phép
bát-nhã ba-la-mật-đa thì ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết mọi khổ ách”.
Vấn đề của chúng ta
hôm nay là tìm hiểu danh từ ngũ uẩn.
Ngũ là năm, uẩn là chứa nhóm. Ngũ uẩn
còn có tên khác là ngũ ấm, ấm là ngăn
che (ngăn che chân lý). Ngũ uẩn gồm có: sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn,
thức uẩn.
Khi nghe danh từ thân tâm hay danh sắc, ta hiểu đó là nói con người,
con người gồm có thân và tâm, hoặc là gồm có danh và sắc; sắc để chỉ cái thân
do tứ đại (đất, nước, gió, lửa) hợp thành, danh để chỉ chung thọ, tưởng, hành,
thức (nói là danh vì chỉ có tên mà không có hình tướng).
Chữ sắc ở trong sắc
uẩn có nghĩa rộng hơn chữ sắc trên đây.
Nó bao gồm những thứ mà ta gọi là vật chất, hình tướng, đất, nước, núi,
sông, cây cỏ, đường xá, nhà cửa... và ngũ căn (mắt, mũi, tai, lưỡi, thân) cùng
với ngũ trần (màu và hình, thanh tức là tiếng, mùi, vị, xúc do sờ mó...)
Thọ uẩn là cảm xúc gồm có ba loại
: vui, buồn, không vui không buồn (tạm gọi là trung hòa).
Tưởng uẩn khó hiểu hơn.
Chữ tưởng hàm cái nghĩa tưởng tượng, nhưng chưa đủ. Nó có nghĩa “thu và
nhận”, nhận biết chứ không phải là nhận vào : THU những cái mình đã biết do học
hành, kinh nghiệm ... để khi gặp một cái gì thì NHẬN ra nó là cái gì và xếp nó vào một cái tập hợp
nào đó để nó có tên. Trông thấy một con trâu, ta nhớ lại hình đã coi trong sách
và xếp nó vào tập hợp trâu, biết nó là con trâu. Nghe thấy tiếng hát thì biết đó là tiếng hát.
Tóm lại, đó là biết, đó là tri giác.
Hành uẩn khó hiểu nhất. Hành thoạt tiên nghĩa là hành động cố ý,
không vô tình, do thân khẩu ý; hành gây
nên nghiệp. Hành có thể thiện, ác
hay trung hòa. Hành còn chỉ chung mọi thứ duyên khởi, nói chung là các hợp thể. Hành lại có nghĩa là các thói quen, khuynh hướng,
cảm nghĩ sâu đậm tích lũy từ nhiều kiếp (do thân khẩu ý), chúng ảnh hưởng, hướng
dẫn và thúc đẩy các hành động. Nói gọn lại,
nó là các hoạt động tâm lý. Vậy hành uẩn có hai yếu tố: quá khứ (kinh nghiệm,
thói quen) và hiện tại (thúc đẩy thân khẩu ý).
Thức uẩn là gì? Chúng ta mới nói đến “cố ý”, thế là nhắc đến
vai trò của thức uẩn. Các uẩn trên đây
mang dữ kiện, tài liệu, “hồ sơ” đến cho thức.
Thức so đo, cân nhắc, phân biệt (chữ này rất thông dụng trong Phật học). Do phân biệt mà sinh hỉ nộ ai lạc ái ố dục tức
là thất tình. Tiếp theo là có quyết định
để hành động. Trách nhiệm là ở đây. Kinh
Pháp cú nói: “Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo”.
Xin lấy một thí dụ cho dễ hiểu: lúc này, tôi đang nói chuyện hầu quý vị. Tiếng nói của tôi (thanh trần), chạm vào tai
quý vị (nhĩ căn), nhĩ thức của quý vị cho biết là có tiếng nhưng chưa hiểu là
tiếng gì và nghĩa ra sao. Tưởng uẩn xếp
loại: đây là một bài về Phật học và nhận biết đó là bài về Phật học. Thọ uẩn gợi
ra một cảm giác: chán quá, hoặc hay quá ... Hành uẩn “xúi” quý vị nhớ lại cái
kinh nghiệm, cái thói quen: ngáp, xem đồng hồ, gật gù, vỗ tay ... Nhưng có thể
quý vị không làm thế vì thức uẩn phân biệt, bảo rằng cứ ngồi nghe bình thản.
Tôi mới đọc cuốn Lược giải những pháp số căn bản do Làng Cây Phong xuất bản 1996. Ngũ uẩn được giảng như sau:
1/ Sắc (sắc uẩn) là tất cả các bộ phận sinh lý, nói chung là cơ thể con người.
2/ Thọ (thọ uẩn) là cảm giác sinh lý sinh ra khi các giác quan của cơ thể
tiếp xúc với đối tượng của chúng. Cảm
giác có thể là dễ chịu (lạc thọ) khó chịu
(khổ thọ), hoặc không dễ chịu cũng không khó chịu (xả thọ).
3/ Tưởng (tưởng uẩn) là tri giác tức là sự
nhận biết đối tượng của nhận thức con ngưới. Thí dụ nhìn tượng Phật thì biết là tượng Phật,
nghe tiếng chuông thì biết là tiếng chuông, ngửi mùi nhang biết là mùi nhang
vv...
4/ Hành (hành uẩn) là chỉ chung cho tất cả mọi hiện tượng, mọi sự vật được
hình thành do nhân và duyên, tức là vạn pháp trong vũ trụ (ở cả ba lĩnh vực tâm
lý, sinh lý và vật lý). Riêng hành uẩn ở đây chỉ cho tâm hành tức là
những hiện tượng tâm lý của con người ...
5/ Thức (thức uẩn) là tâm thức, nói tổng quát, đó là căn bản thức (= a-lại-da)
và nói chi tiết thì đó là tám thức ... (tâm vương), các kinh luận thường gọi một
cách tổng quát là tâm, ý hay thức.
Tại sao “ngũ uẩn là không”? Từ những lời dạy trong kinh Ngũ ấm vô thường, chúng ta biết rằng: Sắc uẩn là do
duyên hợp
mà có, hết duyên thì tan, tự nó không có. Các cảm thọ vui, buồn chỉ nảy ra khi
sáu căn tiếp xúc với sáu trần, tự chúng không có.Tâm duyên theo cảnh, cảnh qua
đi nhưng hình ảnh còn lại, khi tưởng đến thì lại hiện ra, thế thôi. Hành ấm (tạm
coi như tâm lý con người cho dễ hiểu) thay đổi rất nhanh, nó vô thường.Thức tùy
thuộc các chủng tử và nghiệp mà phân biệt.
Ngũ uẩn là vô thường, là giả có, là tạm bợ, là do duyên sinh, là hợp thể.
Chúng không có tự thể riêng biệt, Phật học gọi ngắn là “không”. Biết là không một cách rốt ráo (chứ không phải
chỉ nói, chỉ xác nhận xuông) là nhờ tu đến lúc chứng ngộ được trí huệ bát-nhã,
hết chấp pháp và chấp ngã, tức là đạt nhị không. Tới mức đó thì hết mọi khổ
đau!
Gặp một đề tài khó quá, chúng tôi đánh bạo mà nhận
và đã hết sức cố gắng làm xong nhiệm vụ. Chúng tôi mong rằng sau này sẽ còn có
dịp trình bày lại nếu được học hỏi thêm, hôm nay chúng tôi nhận có nhiều thiếu
sót, xin quý vị thông cảm cho.
PHỤ LỤC. Tại sao “ngũ uẩn là không”? Từ những lời dạy trong kinh Ngũ ấm vô thường, chúng ta biết rằng: Sắc uẩn là do duyên hợp
mà có, hết duyên thì tan, tự nó không có. Các cảm thọ vui, buồn chỉ nảy ra khi
sáu căn tiếp xúc với sáu trần, tự chúng không có.Tâm duyên theo cảnh, cảnh qua
đi nhưng hình ảnh còn lại, khi tưởng đến thì lại hiện ra, thế thôi. Hành ấm (tạm
coi như tâm lý con người cho dễ hiểu) thay đổi rất nhanh, nó vô thường.Thức tùy
thuộc các chủng tử và nghiệp mà phân biệt.
Ngũ uẩn là vô thường, là giả có, là tạm bợ, là do duyên sinh, là hợp thể.
Chúng không có tự thể riêng biệt, Phật học gọi ngắn là “không”. Biết là không một cách rốt ráo (chứ không phải
chỉ nói, chỉ xác nhận xuông) là nhờ tu đến lúc chứng ngộ được trí huệ bát-nhã,
hết chấp pháp và chấp ngã, tức là đạt nhị không. Tới mức đó thì hết mọi khổ
đau!
Gặp một đề tài khó quá, chúng tôi đánh bạo mà nhận
và đã hết sức cố gắng làm xong nhiệm vụ. Chúng tôi mong rằng sau này sẽ còn có
dịp trình bày lại nếu được học hỏi thêm, hôm nay chúng tôi nhận có nhiều thiếu
sót, xin quý vị thông cảm cho.
The Shambala Dictionary of Buddhism and Zen:
Skandha: term
for the five aggregates which constitutes the entirety of what is generally
known as “personality”. They are:
1/ Rùpa, corporeality
or form
2/ Vedanà,
sensation
3/ Sannà, samjnà, perception
4/ Samskàra, mental formations
5/ Vinnàna, vijnàna,
consciousness.
These aggregates are
frequently referred to as “aggregates of attachement” since (excluding the case
of arhats and buddhas) craving or desire
attaches itself to them and attracts
them to itself; thus it makes of them objects of attachment and brings about
suffering. The characteristics of the
skandhas are birth, old age.
W. Rahula, L’enseignement du Bouddha, Ed. du Seuil,
Paris. p.83:
Samkhārā dans la liste des Cinq Agrégats signifie “formations mentales” ou
“activités mentales” produisant des effets karmiques. Mais ici (dans un extrait
du Dhammapada) il signifie toutes les choses conditionnées ou composées
incluant également les Cinq Agrégats. Le
terme samkhārā a différentes significations
dans différents contextes.
Trong Con đường thoát khổ, dịch
sách nói trên, ni sư Trí Hải viết:
Samkhārā trong năm uẩn có nghĩa “hành” hay “những hoạt động tâm lý” phát
sinh nghiệp quả. Nhưng ở đây (mấy câu
trích ở kinh Pháp cú) nó có nghĩa mọi
sự vật bị giới hạn hay bị kết hợp, gồm cả năm uẩn. Danh từ samkhārā có ý nghĩa khác nhau tùy trường
hợp.[Góp ý: conditionné không dịch
như thế được, đó là duyên khởi , duyên hợp
hay duyên sinh.]
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét