Thứ Bảy, 3 tháng 5, 2014

TAM PHÁP ẤN


BƯỚC VÀO CỬA PHẬT
Hoằng Hữu NGUYỄN VĂN PHÚ
32. TAM PHÁP ẤN
Vị sư già ngạc nhiên khi nhận được thư mời của quan huyện, lời lẽ ôn hòa, lịch sự hơn điều mà Cụ chờ đợi. Số là từ mấy tháng nay, theo lệnh của triều đình, các sư sãi đều phải đi dự thi, ai không thông suốt kinh điển Phật giáo, ai thiếu đạo hạnh thì phải đuổi về làm thường dân, không được mặc áo cà-sa nữa. Triều đình làm vậy cũng có lý do, vì từ lâu chùa chiền mọc ra quá nhiều, người xuất gia không đủ học và hạnh đã biến Phật giáo thành một thứ tôn giáo tạp nhạp, mê tín dị đoan.
Cụ không nằm trong số những người phải gọi đi thi, có lẽ Quan huyện cũng đã nghe Cụ là người đạo hạnh. Trong vùng, mọi người đều quý mến và kính trọng Cụ.  Nay, được thư của quan huyện - một vị thái học sinh, thông suốt tam giáo - Cụ ngạc nhiên là phải.
Người lính lệ lễ phép chào Cụ và thay vì dẫn Cụ vào công đường thì lại mời Cụ vào tư thất của Quan huyện.  Ông quan và vị sư già nghiêm chỉnh thi lễ và câu chuyện bắt đầu.
- Bản chức mời Thượng Tọa đến đây không phải là vì lịnh của triều đình đâu.  À! Hôm trước, tên lý trưởng tự tiện đến chặt tre của chùa về làm chuồng heo, chú tiểu ra ngăn thì hắn nói chùa này là do mẹ hắn sáng lập và cúng ruộng hậu nên hắn có muốn chặt tre cũng không có ai cấm hắn được.  Có đúng thế không?
- Dạ, thưa Ngài, quả có thế, nhưng sau đó không có chuyện gì nữa ạ.
- Thôi được, để đó, tôi sẽ xét.  Bây giờ xin nói rõ mục đích của tôi.  Mẹ tôi thờ Phật, tụng kinh hàng ngày và vẫn nghiên cứu kinh điển.  Gần đây, Mẹ tôi có đề cập đến Tam Pháp Ấn, nên tôi thỉnh Thượng Tọa vui lòng giảng giải, để tôi có dịp thưa lại với Mẹ tôi sau này.
Vị sư già hiểu ngay rằng quan huyện muốn đi vào một điểm quan trọng trong giáo lý của đức Thế Tôn và ông chẳng phải là một người ít hiểu biết về Phật pháp.  Lại nữa, một chồng hồ sơ trên án đủ nhắc nhở nhà sư rằng vị quan này không có nhiều thì giờ.  Rõ ràng chủ ý của ông là muốn nghe đầy đủ nhưng ngắn gọn.  Vị sư già hắng giọng và vào đề ngay:
- Thưa Ngài, tam pháp ấn là từ ngữ để tóm tắt ba điều căn bản của giáo lý đạo Phật; kinh kệ nào thuận với ba điều ấy thì coi như được đóng ấn chứng nhận là chính thống.  Ba điều ấy là : vô thường, vô ngã, và niết- bàn.  Nói rõ là chư hành vô thường, chư pháp vô ngã và niết-bàn tịch tĩnh.
Đầu tiên nói về vô thường.  Người đời vẫn nói "bóng câu qua cửa sổ", "sớm nở, tối tàn", đó là một cách hiểu chữ "vô thường".  Hiểu thế chưa đủ, và có thể mang lại hậu quả không mấy tốt: đó là chán đời phù du, hay mau hưởng thụ, hoặc cầu khẩn cho sống được lâu.  Thật ra thì mọi sự, mọi vật đều vô thường, có nghĩa là mọi sự mọi vật đều thay đổi luôn luôn.  Sự thay đổi đó có thể nhanh chóng như bông hoa nở rồi tàn; có thể chậm như trái núi mòn dần do sóng biển táp vào từng lúc, và cả cái thân xác ta đây, tâm tính ta đây cũng thay đổi luôn luôn.  Luật "thành, trụ, dị, diệt" là luật chung của vũ trụ.
Quan huyện nói: "Vâng, biến dịch! Cái quy luật ấy người đời có lẽ ai cũng nhận thấy.  Chẳng hay tầm quan trọng của nó đối với người con Phật là như thế nào?"
- Thưa Ngài, quả vậy, trước đức Thế Tôn, người ta đã nói đến biến dịch rồi.  Có người đi xa hơn nữa, cho rằng vạn vật biến dịch nên chẳng còn tin vào cái gì nữa; ngay cả lời nói cũng đổi nghĩa luôn nên chẳng tin được!  Ta hãy gác sang một bên những tư tưởng cực đoan ấy để nói về tầm quan trọng của cái luật vô thường tuy đơn giản nhưng lại là cơ bản.  Đúng vậy, mọi thứ đều biến dịch, thế thì chúng ta phải tìm cách mà thay đổi theo hướng tiến lên, theo chiều chân, thiện, mỹ.  Tóm lại, là làm cho mình trở thành Phật.  Chỗ tột cùng là ở đó, không phải là ở chỗ "quán vô thường" để chỉ biết tính cách vô thường của thế gian mà thôi.  Người thế gian hay quên sự thăng tiến, sự thiện hóa của con người, cho nên khi lăn vào cuộc sống có lúc đã làm cho chính mình tụt xuống hàng súc sinh hay ngạ quỷ trong kiếp này; súc sinh vẫn ăn thịt nhau, nhưng con người thì giết nhau còn khủng khiếp hơn cả súc sinh!  Nếu giác ngộ rằng mình phải theo Phật đạo, thì đó là theo đúng con đường tiến lên của kiếp nhân sinh vậy.
- Đa tạ Thượng Tọa. Xin cho nghe về điều thứ nhì.
- Thưa Ngài, xin nói về vô ngã.  Nôm na, vô ngã là không có ta.  Điều này có vẻ tối nghĩa.  Ngài ngồi đây, tôi ngồi đây, chúng ta đang bàn bạc.  Nói rằng không có Ngài, không có tôi, vô lý lắm ru!  Nhưng, chắc Ngài đã biết rồi, "vạn pháp vô ngã" có nghĩa là: sự sự vật vật trên thế gian này không có tự thể.  Dùng chữ như vậy, có lẽ ta đã đem cái khó hiểu nọ thay cho cái khó hiểu kia.  Thế thì chúng ta nên đồng ý với nhau mà nói như thế này: sự sự vật vật trên trế gian không có cái gì riêng rẽ với cái gì, cái gì cũng bị trói buộc, bị liên hệ với những cái khác.  Cái đám mây kia có quan hệ với Ngài và tôi nhiều lắm vì nó đem mưa đến, mưa làm ruộng lúa xanh tươi, và ruộng lúa đưa gạo đến nuôi Ngài và tôi.
- Thưa Thượng Tọa, tôi lại muốn nói lại câu hỏi lúc nãy.  Luật "vạn pháp vô ngã" có tầm quan trọng ra sao đối với người Phật tử?
- Thưa Ngài, bước thứ nhất, người Phật tử hiểu vô ngã để loại bỏ dần tính ích kỷ, loại bỏ dần "cái ta", cái "của ta"; bước thứ nhì, người Phật tử hiểu vô ngã để biết mình và chúng sinh là một, nhờ đó phát triển tâm từ bi, yêu chúng sinh như yêu mình.  Đức Khổng Tử dạy nhân ái, yêu người như yêu mình; đức Thế Tôn dạy yêu chúng sinh như yêu mình, vì "tất cả là một", "một là tất cả”, như kinh Pháp Bảo Đàn đã nói.  Đến bước thứ ba, người Phật tử hiểu vô ngã, tiến lên hiểu "nhất chân bình đẳng pháp giới", đi tìm cái thực tướng của vạn pháp, cái chung cho tất cả cái một của sự vật.  Do đó, hàng ngày tụng Bát-nhã Tâm Kinh, cố gắng đến một ngày nào đó bật ra cho được "thị chư pháp không tướng, bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm", cố gắng đến một ngày nào đó tìm ra cho được cái thường, cái hằng nằm ngay trong các pháp hữu vi vô thường mà Kinh Kim Cang gọi là "bọt nước, điện chớp".
- Thưa Thượng Tọa, tìm thực tướng của vạn pháp, cái tướng mà không phải là tướng, cả một vấn đề lớn!
- Quả thế!  Thưa Ngài.  Nhưng khoan, chưa nên đi sâu vào điểm đó, vì đó là một dấu ấn khác của đạo Phật.  Đó là "Thực Tướng Ấn" mà hôm nay ta chưa bàn đến, vì lẽ Ngài đang muốn nghe Tam Pháp Ấn.  Tôi xin nói tiếp về điểm thứ ba, tức là nói về Niết-bàn. 
Nói "Đức Phật nhập Niết-bàn", người ta thường nghĩ đến "đức Phật viên tịch, đức Phật chết" ở gốc cây sa-la.  Nói đến Kinh Niết-bàn, người ta thường nghĩ đến kinh mà đức Phật thuyết khi sắp giã từ cõi đời này.  Vì thế, nói đến Niết-bàn người ta hay tưởng tượng ra một cõi nào đó, an lạc, sung sướng, không khổ não ...  Thật ra, nên hiểu "Niết-bàn tịch tĩnh" như thế này.  Ý thứ nhất, đó là trạng thái của người đã diệt được tham, sân, si, tức là ba cái độc làm cho con người tạo nghiệp, đễ bị chìm đắm mãi trong vòng luân hồi sinh tử.  Ý thứ nhì, đó là trạng thái diệt được cái ngã, mình và vũ trụ hòa lại làm một.  Ý nghĩa thứ ba, đó là thoát khỏi sinh tử luân hồi.  Cả ba ý đó rút lại là chấm dứt khổ đau phiền não, thoát vòng luân hồi, giác ngộ Chân Lý, tức là đạt "đệ nhất nghĩa đếâ" vậy. 
- Thưa Thượng Tọa, làm cách nào đạt được đến trạng thái đó?
- Thưa Ngài, hiểu được lời Phật dạy, là hiểu giáo lý của Ngài. Muốn đi theo con đường của Ngài - con đường giải thoát - thì phải thực hành giáo pháp của Ngài.  Một mặt là lý nhập, một mặt là hạnh nhập, nói dễ hiểu là lý thuyết và thực hành.  Người con Phật phải đặt việc thực hành vào hàng chính yếu vì trong kinh đã nói: "đói mà không ăn, chỉ nhìn người khác ăn, thì chính mình no sao được?".  Ai tu người đó hưởng, không ai tu hộ được.
- Tu thế nào, thưa Thượng Tọa?
- Thưa Ngài, bài pháp đầu tiên của đức Phật dạy về Tứ Diệu Đế, đế thứ tư nói về Bát Chánh Đạo gọi tắt là Trung Đạo (chứ không phải là đạo Trung Dung của đức Vạn Thế Sư).  Lại có kinh giảng về Thập Nhị Nhân Duyên, mục đích giảng lý do có sự luân hồi.  Lại có chổ dạy Lục Độ Ba-la-mật. Trong đạo Phật, có nhiều cách tu, nhiều đến nỗi gọi là "tám vạn bốn ngàn pháp môn".
- Tôi có tu được không?
- Ai ai cũng có Phật tính, ai cũng có khả năng thành Phật, Ngài cũng tu được chứ.
Quan huyện cười, mời nhà sư uống trà và hẹn:
- Đa tạ Thượng Tọa đã cho nghe về Tam Pháp Ấn.
Nhà sư từ biệt quan huyện, chầm chậm đi về chùa...  

---ooo0ooo---

Không có nhận xét nào: