BƯỚC VÀO CỬA PHẬT – BÀI 10
Hoằng
Hữu NGUYỄN VĂN PHÚ
10.
BỒ-TÁT QUÁN THẾ ÂM
Phật tử chúng ta mỗi khi
đến chùa, đều đến lễ trước bàn thờ Phật và bàn thờ một vị Bồ-tát, đó là Bồ-tát
Quán Thế Âm. Hàng năm, vào ngày Phật
Đản, chúng ta được nghe lược sử của đức Phật Thích-Ca, một nhân vật lịch sử,
sáng lập ra Phật giáo. Còn như Bồ-tát
Quán Thế Âm, thì Ngài không có giáng sinh tại trái đất của chúng ta đây, nhưng
kinh sách Phật giáo có chép tiền thân của Ngài: Ngài là một thái tử đã được dịp
theo vua cha đến hầu Đức Phật Bảo Tạng và được Đức Phật Bảo Tạng thọ ký sau này
thành Bồ-tát Quán Âm, phụ tá Đức Phật Di-Đà và sau cùng sẽ thành Phật với danh
hiệu Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Phật.
Chúng ta vẫn nghe danh
hiệu của Ngài là Bồ-tát Quán Âm, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ -tát Quán Tự Tại, Phật
Bà Quan Âm ... Ngài quán sát tiếng kêu
than ở khắp nơi để đến cứu khổ, cứu nạn.
Cùng với Bồ-tát Đại-Thế-Chí, Ngài phụ tá Đức Phật Di-Đà tại cõi Cực Lạc
phương Tây, ba Ngài chính là “Tây phương Tam Thánh” vậy.
TAM THÁNH
Do hạnh nguyện của Ngài,
Ngài tùy duyên mà ứng hiện để độ những người gặp khổ đau, tai ách. Ngài có thể hoá thân dưới 32 hình tướng khác
nhau để cứu chúng sinh và ban cho chúng sinh đức tính vô úy nghĩa là không sợ
hãi.
Người Việt Nam chúng ta
thờ Ngài Quán Thế Âm với nhiều hình tượng khác nhau, một là Quán Âm đồng tử
(hình Phật Bà bế đứa trẻ nhỏ), hai là Quán Âm Nam Hải (hình Phật Bà xuất hiện
đứng trên bông sen ở biển Nam Hải), ba là Quán Âm thiên thủ thiên nhãn tức hình
Bồ-tát Quán Âm với một ngàn tay, trong mỗi bàn tay có một con mắt. Thật ra, còn
rất nhiều loại hình tượng khác nữa.
Hình thứ nhất có lẽ dính
dáng đến chuyện Quán Âm Thị Kính (oan Thị Kính). Hình thứ nhì có lẽ dính dáng đến “tứ đại danh
sơn” ở Trung Hoa; đó là bốn ngọn núi danh tiếng ở Trung Hoa. (Phía Đông là núi
Phổ Đà, ở trên một hòn đảo nhỏ, thờ Đức Quán Âm, phía Tây là núi Nga Mi thờ
Ngài Phổ Hiền, phía Bắc là núi Ngũ Đài thờ Ngài Văn-Thù-Sư-Lợi, phía Nam là núi
Cửu Hoa thờ Ngài Địa Tạng). Còn hình thứ
ba nghìn mắt, nghìn tay cốt ý nói lên khả năng cứu độ vô biên của Ngài.
TƯỢNG BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM
THIÊN THỦ THIÊN NHÃN
Hình tượng phổ thông
nhất của Ngài là tượng một vị nữ đứng trên bông sen, tay phải cầm nhành dương
liễu, tay trái mang bình chứa nước cam lồ.
Nhành dương liễu tượng trưng cho đức nhẫn nhục, bình cam lồ nói lên tâm
từ bi. Nhành dương khi bị gió thổi mạnh
thì uốn mà không gãy, hết gió lại vươn lên, đó là hình ảnh người biết tùy thời,
tùy cảnh mà ứng phó, xử sự nhưng vẫn có lập trường chân chánh vững chắc của
mình. Nước cam lồ ngon bổ làm khỏe người
ốm, đánh thức kẻ mê. Ai đau khổ, cầu đến
Ngài, Ngài sẽ tùy duyên mà hóa độ, dùng nước cam lồ mà cứu khổ cứu nạn. Đặc biệt ai bị lòng tham lam và những dục vọng
nổi lên mạnh mẽ như ngọn lửa thiêu đốt ruột gan, nếu biết niệm danh hiệu Ngài
Quán Thế Âm thì lòng tham xẹp xuống, dục vọng tiêu tan. Đó là ý nghĩa của câu “nếu biết niệm Bồ-tát
Quán Thế Âm thì dù nhảy vào lửa, lửa cũng không đốt được”.
Chúng ta coi Bồ-tát Quán
Thế Âm là bà mẹ hiền dùng tình thương bao la mà che chở cho con cái, vì thế
chúng ta thường hình dung Ngài dưới hình một người nữ và gọi Ngài là Phật Bà.
Tuy không nói ra nhưng chắc chắn chúng ta đồng ý với nhau rằng trong toàn thể
các vị Bồ-Tát, chúng ta coi Bồ-tát Quán Thế Âm là gần chúng ta hơn cả và chúng
ta niệm danh hiệu Ngài rất nhiều. Về vấn đề Ngài ứng hiện ở đâu, trước mặt ai,
chúng tôi nghĩ rằng chỉ những ai đã cảm ứng thì người đó mới biết mà thôi.
Phật tử chúng ta biết
đến Ngài nhiều, cũng là do Kinh Phổ Môn. Kinh này chính là phẩm thứ 25 của Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa (nói ngắn là Kinh Pháp Hoa).
Phổ Môn nghĩa đen là
khắp mọi cửa, khắp mọi nhà, nghĩa rộng là pháp môn phổ biến thông dụng mọi lúc
và khắp nơi: trong một môn mà thâu hết các pháp nên gọi là phổ môn, Phật và Bồ
Tát dùng thần thông thị hiện ra mọi hình tướng để cứu độ chúng sanh nên gọi là
phổ môn, đó là “phổ môn thị hiện”.
Người tụng kinh Phổ Môn
chỉ căn cứ vào nghĩa đen của lời kinh thì hiểu rằng niệm danh hiệu Ngài thì có
thể qua bảy nạn (nước, lửa, gió bão, dao kiếm, quỷ dữ, tù ngục và cướp bóc), có
thể vượt qua ba độc (tham, sân, si), có thể xin được hai điều (sinh con trai,
sinh con gái theo ý muốn). Bồ-Tát Quán
Thế Âm thị hiện dưới 32 hình tướng để cứu độ chúng sanh đau khổ thành tâm cầu
cứu Ngài và ban cho vô úy.
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Bước thêm một bước nữa,
người ta tụng thêm Tâm Kinh (Bát-nhã ba-la-mật-đa Tâm Kinh) và thấy rằng “Quán
tự tại Bồ-tát thực hành sâu xa pháp bát-nhã Ba-la-mật-đa nên thấy ngũ uẩn đều
là không cả, qua hết thảy khổ ách”.
Người phàm chúng ta khi
tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì chúng ta có phản ứng theo
thói quen, ý thích, tập quán, phong tục, giáo dục... của mình; chúng ta thích
cái này, ghét cái khác, hoặc chẳng yêu, chẳng ghét gì cả. Ưa thích thì muốn có, muốn chiếm, muốn giữ...
ghét bỏ thì muốn xa, muốn phá, muốn giết.
Lòng tham, sân, si mạnh mẽ đến nỗi như ngọn lửa thiêu đốt tâm can ta,
lòng ham muốn dữ dội quá hệt như gió bão, nước lũ lôi cuốn ta vào những hành
động tội lỗi. Do sáu căn tiếp xúc sáu
trần sinh ra ái, ố, hỉ, nộ, ai, lạc, nghĩ xằng làm bậy, sáu căn hại người không
khác gì binh khí, không khác gì quỷ dữ xúi bẩy, con người không còn tự chủ, mất
cả tự do, thế là chính mình bị tù đày, ràng buộc bởi ham muốn, tham
vọng... Hãy niệm Quán Thế Âm Bồ-tát,
luôn luôn nhớ nghĩ đến Ngài (niệm có nghĩa là nhớ nghĩ) tức là đến giáo pháp
của chư Phật, chư Bồ-tát, thiện tâm hồi lại, Phật tánh trở về, lòng lắng xuống,
tâm an tịnh; lúc đó nước, lửa, gió, vũ khí, quỷ dữ ... không thể làm hại được
ta nữa vì ta đã làm chủ được ta! Giữa lửa tham dục mà không tham dục, như vậy
là nhảy vào lửa, lửa không đốt cháy được.
Giữa sóng dữ của ham muốn, cáu kỉnh mà hết ham muốn, cáu kỉnh, như thế
là gặp bão tố ngoài biển cả mà không bị chìm thuyền... Cầu con trai là cầu phước đức trí tuệ, cầu
con gái là cầu đoan trang nghiêm chánh.
Cũng có thể nói cách khác: con trai tượng trưng cho trí huệ, con gái
tượng trưng cho phước đức, từ bi.
Hãy tu theo pháp môn
Quán Thế Âm Bồ-tát, hãy luôn niệm danh hiệu Ngài như niệm danh hiệu đức Phật
A-Di-Đà, sẽ được sáng suốt, không còn si mê, sẽ an tịnh, không còn giận hờn, sẽ
hết tham dục, sẽ hiểu chư hành vô thường, mà hết tham dục, sẽ trở nên từ bi,
yêu thương muôn loài, là bạn của tất cả, hết quân thù, keœ cướp, hết quỷ dữ
rình mò làm hại...
Hãy tu theo pháp môn
Quán Thế Âm, hãy học theo hạnh nguyện của Ngài.
Nói rằng Ngài thị hiện 32 hình tướng để cứu khổ, cứu nạn cũng như nói:
người tu theo Phật thì “chúng sinh bao nhiêu, xin độ hết”, người căn cơ ra sao
thì cứu giúp theo căn cơ của họ.
Lại bước thêm một bước
nữa: tu mãi, tu mãi, kiên quyết tu hành, đến một lúc nào đó, giác ngộ một phần,
rồi giác ngộ... , đại giác, toàn giác.
Bấy giờ, đủ thần thông quyền lực, độ khắp chúng sinh như nghĩa đen của
phẩm Phổ Môn. Việc này, phàm phu chúng ta chỉ nghĩ đến trong một sát-na, rồi quay
về hiện tại, tự nhủ phải kiên trì tu hành.
Không phải là cắt tóc, vô chùa, nhưng chỉ cần hiểu nông cạn: hành là
thực hành, là làm; tu là tu sửa, sửa chữa cho hay hơn. Mỗi ngày ta đã tu chưa, đã hành chưa? Nếu có thì Ngài Quán Thế Âm Bồ-Tát đang ở bên
ta; nếu chưa thì phải vào
việc ngay, kẻo muộn vì “con quỷ vô thường” vẫn đứng
kia, ngày mai có kịp không?
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét