NHẠC CỤ TÂY PHƯƠNG
Sưu tầm
---o0o---
6 – Dương cầm
Dương cầm, tên tiếng Việt của piano, là một nhạc cụ thuộc bộ gõ, rất
phổ biến và được ưa chuộng trên toàn thế giới.
Những chiếc Dương cầm cổ điển hay còn gọi thông thường là Piano cổ điển
ngày nay được xây dựng trực tiếp từ những chiếc đàn clavico clavecin
(harpsichord) từ khoảng thế kỷ 16 và 17.
Harpsichord
Khoảng năm 1700, Bartolomeo Cristofori đã thử tạo ra một chiếc đàn
harpsichord mà có thể biểu hiện âm nhạc một cách truyền cảm hơn, và đã tạo ra
một bộ máy mà các búa gõ vào các dây, khác với đàn harpsichord là dùng quill
(dụng cụ gảy đàn bằng ống lông) để gảy. Một đặc trưng lớn khác ở đàn piano thời
đầu của ông là cơ cấu búa thoát, nó khiến cho búa tách rời khỏi phím một khi
các nốt được đánh lên, và rồi chơi lại ở một vận tốc khác hẳn, làm thay đổi hẳn
sự biểu cảm của chính các note đó. Những chiếc piano đầu tiên của Critofori vẫn
còn chứa đựng rất nhiều nét giống với thiết kế của một cây đàn clavecin, còn âm
thanh thì phần nhiều vẫn như thế, ngoại trừ việc là người chơi bấy giờ có thể
chơi nhạc bằng việc nhấn vào bàn phím.
Piano Cristofori
Các thiết kế của Cristofori không được biết đến mãi cho đến những năm
cuối của 1700, khi các bản thiết kế piano của ông được xuất bản. Các nhà sản
xuất như Gottfried Silbarmann người Đức và học trò của ông là Christian
Friederici và Johannes Zumpe bắt đầu phát triển piano với vai trò là một nhạc
cụ độc lập với clavecin. Mặc dù lúc đầu không được ấn tượng cho lắm nhưng được
J.S.Bach ủng hộ năm 1747. Âm nhạc bắt đầu được viết riêng cho piano từ năm 1732
và kỷ nguyên của nó với vai trò một nhạc cụ dành cho biểu diễn bắt đầu.
Một loại piano cổ điển
Sự phát triển của piano cổ điển sau năm 1750 diễn ra theo hai hướng cơ
bản. Ở Anh, đàn piano được thiết kế nặng hơn và phức tạp hơn. Ở Đức, một loại
khác nhẹ hơn và cấu trúc đơn giản hơn được biết đến như một cây đàn. Đó chính
là những cây đàn mà Haydn, Mozart và Beethoven đã chơi và soạn nhạc trên đó.
Khi piano cổ điển ngày càng phát triển,
nó dần trở thành một nhạc cụ độc lập và cần làm cho âm thanh to hơn. Để tăng
âm, các dây phải dày hơn và bộ khung phải khỏe hơn nữa, như thế có thể đạt được
một áp lực lớn hơn. Bộ khung của đàn piano thông thường được làm bằng gỗ, trở
nên dày hơn và nặng hơn và thanh chằng chéo giúp nó kiên cố hơn. Đến năm 1820,
Thomas Allen thậm chí vẫn còn dùng các ống kim loại để giữ căng các dây, và một
nhà sản xuất người Anh là John Broadwood bắt đầu dùng các tấm bằng sắt để giữ
cho chúng được căng lên, mà giờ đây các đĩa đó phần lớn được làm bằng kim loại
hơn là bằng gỗ. Năm 1825, Alpheus Babcock sáng chế ra khung bằng gang và sau đó
năm 1843, một người Mỹ là Jonas Chickering bắt đầu làm piano với một đĩa tròn
vành, một nét đặc trưng của các piano cánh ngày nay. Một sự phát triển đáng chú
ý khác là việc chằng các dây, được phát triển bởi Henri Pape vào năm 1828 và
Steinway cấp bằng sáng chế năm 1859, ông đã đặt các dây bass dài hơn lên cao
hơn các dây kim, giúp cho các dây dài hơn ở trong hộp ngắn hơn và đặt các dây
bass ở giữa qua một bảng cộng hưởng để có một sự hồi âm tốt hơn.
Piano cánh ngày nay
Piano cổ điển được bắt đầu sản xuất
hàng loạt vào những năm 1800, cùng với sự thành lập của các công ty lớn chuyên
sản xuất đàn Piano cổ điển, những công ty này hoàn toàn phát triển từ nền tảng
của mẫu đàn cánh đó tới năm 1821.
---o0o---
---o0o---
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét