NHẠC CỤ CHỈ CÓ Ở VIỆT NAM (6)
Sưu tầm
---o0o---
6. Đàn tranh
Đàn tranh - cũng được gọi là đàn thập lục - là nhạc cụ của ngu7o2i
Việt. Đàn thuộc họ dây, chi gảy. Vì có 16 dây nên đàn còn có tên chữ là Thập
lục.
Nguồn gốc đàn tranh
Việt Nam là đàn Tranh giống như đàn Sắt từ Trung Quốc truyền sang nước
Việt có thể từ đời nhà Trần hay trước nữa, dùng trong dân gian dưới dạng 9 dây,
15 dây, 16 dây và từ xưa đến giờ thay đổi số dây từ dây tơ sang dây cước (dây
đồng) đến dây thép. Nhưng qua bảy, tám thế kỷ, người nước Việt dùng nó, tạo cho
nó một phong cách đặc thù trong thủ pháp, ngón đàn, tay nhấn nhá, trong thang
âm điệu thức. Đàn tranh đã thành nhạc cụ hoàn toàn mang tính dân tộc Việt Nam
vì đã được người Việt ưa dùng, truyền từ đời này đến đời kia hằng bảy, tám trǎm
nǎm, phù hợp với quan điểm thẩm mỹ của người Việt, và nói rõ ngôn ngữ âm nhạc
Việt Nam.
Đàn tranh hình hộp dài. Khung đàn hình thang có chiều dài
110–120 cm. Đầu lớn rộng khoảng 25–30 cm là đầu có lỗ và con chắn để
mắc dây. Đầu nhỏ rộmg khoảng 15–20 cm gắn 16 khóa lên dây chéo qua mặt
đàn. Mặt đàn làm bằng ván gỗ ngô đồng dày khoảng 0,05 cm uốn hình vòm.
Ngựa đàn (còn gọi là con nhạn) nằm ở khoảng giữa để gác dây và có thể di
chuyển để điều chỉnh âm thanh.
Dây đàn làm bằng kim loại với các cỡ dây khác nhau. Ngày xưa dùng dây
tơ. Khi biểu diễn nghệ nhân thường đeo 3 móng gẩy vào ngón cái, trỏ, & giữa
để gẩy. Móng gẩy làm bằng các chất liệu khác nhau như kim loại, sừng hoặc đồi
mồi.
Âm sắc đàn tranh trong trẻo, sáng sủa thể hiện tốt các điệu nhạc vui
tươi, trong sáng. Đàn tranh ít thích hợp với những tính cách trầm hùng, khỏe
mạnh. Tầm âm đàn tranh rộng 3 quãng 8, từ Đô lên Đô3.
Đàn tranh thường được
sử dụng để độc tấu, hòa tấu, đệm cho ngâm thơ, hát, tham gia trong các dàn nhạc
tài tử, phường bát âm, dàn Nhã Nhạc và các dàn nhạc dân tộc tổng hợp.
---o0o---
---o0o---
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét