NHỮNG NGÔI LÀNG KỲ LẠ
NHẤT VIỆT NAM
---o0o---
1- Làng có nhiều cặp sinh đôi nhất
Với hàng chục cặp sinh đôi, cặp cao nhất đã ngoài 60, cặp nhỏ nhất mới
2-3 tuổi, ấp Hưng Hiệp Nằm, xã Hưng Lộc, huyện Thống Nhất (Đồng Nai)
là làng nắm giữ kỷ lục có nhiều cặp sinh đôi nhất cả nước.
Vào năm 2007, cả xã Hưng Lộc có hơn 60 cặp sinh đôi thì ấp Hưng
Hiệp có tới 40 cặp. Từ đó, người ta gọi ấp Hưng Hiệp với cái tên “làng sinh
đôi”. Đến nay, xã có gần 100 cặp song sinh thì Hưng Hiệp đã chiếm 70 cặp.
Vài năm gần đây, số lượng các cặp song sinh không tăng lên nhưng những
câu chuyện đồn đoán, kỳ lạ về hiện tượng này vẫn được người ta lan truyền. Đó
là chuyện về những giấc mơ kỳ lạ của các gia đình trước khi họ có những cặp
song sinh.
2 - Ngôi làng "hình cá
chép" độc nhất
Làng Hành Thiện, huyện Xuân Trường, Nam Định vốn có tên gọi là
"Hành Cung Trang" được thành lập vào khoảng năm 1500. Đến năm 1823,
vua Minh Mạng cho đổi tên thành Hành Thiện với ý nghĩa "nơi chỉ làm những
điều lành, điều thiện" và ban cho làng 4 chữ "Mỹ Tục Khả Phong".
Điều đáng khâm phục là ngay từ khi lập làng các cư dân nơi đây đã có ý thức quy
hoạch một không gian sống hết sức khoa học, quy củ: hình cá chép.
Làng hình cá chép ở Nam
Định.
Bao quanh làng là hai nhánh của một
con sông nhỏ rộng khoảng 7m, được gọi là sông Con (để phân biệt với sông
Cái - sông Ninh Cơ là một nhánh của sông Hồng). Theo các bậc cao niên
trong làng, có hai giả thiết về việc hình thành lên con sông này.
Giả thiết thứ nhất cho rằng chúng được tạo thành một cách tự nhiên,
những cư dân đến ở chỉ là người khai khẩn, chỉnh trang lại như địa thế ngày
nay. Giả thiết thứ hai được nhiều người tán thành hơn, đó là chính những cư dân
đầu tiên đã "quy hoạch" ngôi làng và tiến hành đào lên hai con sông
theo ý đồ trước đó, nhằm mục đích phù hợp với phong thủy và ngăn giặc cướp.
Điều làm nên sự kì ảo của hai nhánh con sông này chính là việc nó đã tạo
hình dáng con cá chép của ngôi làng. Nhìn từ trên cao, hai nhánh con sông như
những đường viền ngăn cách ngôi làng với vùng đất bên cạnh, khiến cho khu đất
bên trong hiện lên hình dáng "lý ngư", những cây cầu xung quanh làng
cũng được xây dựng ở vị trí tương ứng với các loại vây trên mình cá, tại phần
đầu cá còn có một chiếc giếng khơi, nước trong vắt nên được gọi là giếng Mắt
cá.
Nếu coi làng Hành Thiện như một chú cá chép thì vùng đất từ giữa bụng cá
trở lên đến mang cá được quy hoạch làm nơi sinh sống của dân cư trong làng.
Trong khu vực này hình thành lên 14 dong (xóm), mỗi dong cắt ngang theo thân cá
như chia khúc, gồm một con đường chạy dọc ở giữa và các ngôi nhà được xây dựng
hai bên. Phần đầu cá được quy định làm nơi họp chợ của cả làng, tại đuôi cá là
khu nghĩa trang và chùa miếu để phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân.
Nhìn tổng thể mặt địa lý làng Hành Thiện ta không thể không khâm phục óc
tưởng tượng của các cư dân cách đây hơn 510 năm, theo như tài liệu để lại,
trước đây toàn bộ đường đi trong làng đều được lát đá xanh, "mưa gió bùn
đất không bén gót chân", bên cạnh đường xóm là rãnh thoát nước được xây
bằng gạch mộc, chính vì thế làng không bao giờ phải chịu cảnh ngập lụt bởi tất
cả nước mưa, nước sinh hoạt đều theo các rãnh này chảy ra hai nhánh con sông
quanh làng và từ đó thoát ra sông Ninh Cơ.
Ngày nay về cơ bản
làng vẫn giữ nguyên hình dạng như thuở sơ khai…
3 - Làng xây bằng tiểu sành trộn mật
ong
Làng gốm Thổ Hà xây
nhà bằng tiểu sành và mật ong.
Đó là làng Thổ Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Vốn làng có nghề gốm
cho nên từ nhiều đời nay, người dân tận dụng những chiếc tiểu sành (đựng hài
cốt) vỡ, hỏng không bán được để xây tường.
Chính bởi những tiểu sành này rỗng bên trong, lại có những lỗ nhỏ bên
ngoài nên được loài ong “tận dụng” làm thành tổ của mình. Vì thế, mỗi bức tường
nhà của người dân Thổ Hà có đến vài ba chục đàn ong sinh sống.
Mặc dù vậy, như một thứ luật bất thành văn, chủ mỗi ngôi nhà có ong trú
ngụ không bao giờ được lấy mật bởi có thế khiến chúng bỏ đi hoặc tấn công nguy
hiểm. Đã có trường hợp, kẻ trộm vào nhà người dân nơi đây lấy trộm mật và bị
ong đuổi trối chết.
4 - Làng trai độc thân
Bộng Dầu (Quảng Nam)
nơi vốn nổi tiếng với trái bòn bon từng được mệnh danh là “Nam trân” (trái quý ở phương Nam) hàng chục năm qua còn mang tên
là xóm đàn ông độc thân.
Đàn ông Bộng Dầu trở
về quê hương sau tháng ngày bôn ba.
Làng có 28 hộ với gần 150 người nhưng đến nay đàn ông trong xóm đa phần
đã đến độ tuổi kết hôn mà vẫn chưa lập gia đình. Người ta đến với làng này
trước sau chỉ thấy đàn ông không vợ. Không phải vì đàn ông xứ này có vấn
đề về sinh lý, bởi những lần tụ lại bên mâm rượu, chủ đề của họ vẫn là phụ nữ,
vẫn nói chuyện gái trai như bao người khác. Cũng không phải họ tôn thờ chủ nghĩa
tự do, không muốn ràng buộc vợ con mà phần nhiều là do hoàn cảnh. Đa số đàn ông
ở Bộng Dầu rất nghèo và có hoàn cảnh đặc biệt phải ở vậy...
Cái nghèo khiến đàn ông làng Bộng Dầu cũng đã bôn ba khắp trong Nam,
ngoài Bắc với nhiều nghề để sống nhưng rồi cuối cùng quay trở về cố hương để đi
phụ hồ, làm cát sỏi kiếm ngày dăm bảy chục ngàn nuôi thân và nuôi cha mẹ già.
Vì thế họ luôn canh cánh một nỗi niềm: lấy vợ rồi sống bằng gì, có lo được cho
gia đình không hay lại làm khổ vợ, khổ con.
Giờ đây, ánh điện đã thắp sáng khắp nơi, những phương tiện truyền thông
liên lạc hiện đại đã có thể đến từng góc nhà của xóm Bộng Dầu, hy vọng một ngày
không xa, những người đàn ông Bộng Dầu không còn phải đơn độc.
5 - Làng ăn sâu bọ ở Tây Nguyên
Loài sâu muồng được ưa
chuộng ở Tây Nguyên.
Đầu mùa mưa, các loại
sâu ăn lá không biết từ đâu về “cập bến” Tây Nguyên làm hại mùa màng của dân.
Lúc đầu là số sâu đếm trên đầu ngón tay, về sau, sâu sinh sôi nảy nở nhanh
chóng và có mặt ở khắp các cành cây, ngọn lá.
Dùng thuốc trừ sâu nhưng tác dụng với loài sâu muồng phá hại cây cối mùa
màng, người dân ở một số huyện các tỉnh Tây Nguyên đã nghĩ ra biện pháp
"lấy độc trị độc”: bắt "giặc cây” đem về chế biến thành món ăn.
Ban đầu khi mới ăn sâu, không ít người dân sợ bị bệnh tật vào người
nhưng sau này ăn nhiều họ lại trở nên nghiện món ăn quái đản này. Khi rảnh rỗi
một số người dân lại cùng những chiếc rổ nhựa, vài cái gậy đi đến các cây muồng
bắt sâu đem về ăn. Sâu nhiều đến nỗi đi bắt chỉ trong vòng chưa đầy 30 phút đã
đầy một rổ nhỏ.
Sâu được bà con nơi
đây chế biến thành nhiều món như: hấp, rán, xào, nướng.
Theo Đất Việt
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét