NHẠC CỤ CHỈ CÓ Ở VIỆT NAM (2)
Sưu tầm
---o0o---
2. Khèn Mông
Người Mông có vốn nghệ
thuật dân gian rất phong phú. Vào mùa xuân, dịp tết (từ 30 tháng 11 Âm lịch),
hay lễ cưới của họ đều hát dân ca và múa khèn rất độc đáo và đặc sắc. Chuyện về
chiếc khèn Mông bắt nguồn từ một truyền tích
Dân tộc
Mông ở Yên Bái có khoảng 55.000 người, chiếm 8,1% dân số toàn tỉnh Yên Bái, cư
trú tập trung tại 40 xã thuộc 5 huyện là Mù Cang Chải, Trạm Tấu, Văn Chấn, Văn
Yên, Trấn Yên, Lục Yên.
Chuyện kể
rằng: “Ngày xưa có một nhà nọ cha mẹ mất sớm, để lại sáu anh em trai ở với
nhau. Họ làm được cái khèn có 6 lỗ và sáu bộ phận để sáu anh em cùng được thổi.
Ngày ngày họ đi làm nương rẫy, tối về anh em quây quần bên nhau và cùng mang
khèn ra thổi.
Tiếng khèn trầm bổng thắm thiết, người dân trong bản tối nào cũng
đến chơi để nghe thổi khèn rất đông vui. Thời ấy xảy ra chiến tranh giữa các bộ
lạc. Chúng giết người cướp của. Sáu anh em thì có năm người, người thì bị giặc
giết hại, người theo nghĩa quân đánh giặc, người thì bị phiêu bạt. Còn lại
người em út không nhà cửa ở với chú ruột. Thiếu tiếng khèn, trong vùng trầm
lặng, quạnh hưu. Vắng các anh cho nên chàng út không thể thổi được khèn. Chàng
út liền nghĩ ra một ý là tổng hợp cả năm chi tiết kia thành một cây khèn. Chiếc
khèn ấy ngày nay được gọi là khèn Mông...”.
Đến phiên
chợ, trai gái Mông từ trên núi cao đổ xuống dập dìu. Người đi bộ, người đi
ngựa, không ai bảo ai nhưng trên vai ai cũng có một cây khèn Mông. Họ xuống chợ
để nhớ, để thương, để tỏ tình, để truyền gọi và bên nồi thắng cố với hương rượu
ngô nồng nàn của men lá, các chàng trai cầm khèn thổi, khom lưng nhún nhẩy lượn
quanh những cô gái… Nếu đôi nào ưng ý nhau thì dắt tay nhau tan biến vào núi
rừng. Cây khèn Mông có thể ví như một báu vật truyền lại cho các thế hệ sau,
trở thành một phần văn hóa không thể thiếu của người Mông.
Tiếng khèn ngấm sâu
vào từng thớ thịt người Mông, thân quen như mèn mén và rượu ngô. Con trai Mông
người nào cũng đều có chiếc khèn trên vai mỗi khi lên nương hay xuống chợ. Âm
thanh của khèn vút cao vừa như trách, vừa như hờn giận, vừa như mời gọi… và
cũng mạnh mẽ như chính hơi thở cuộc sống người Mông vậy. Bởi, nếu không mạnh
mẽ, người Mông chắc khó lòng sống nổi với sự khắc nghiệt nơi núi cao đầy đá,
nắng và gió lạnh… Tiếng khèn cũng như mang trong mình một ma lực quyến rũ, vang
vọng và nồng nàn giữa núi rừng đầy huyền bí nhưng rất gần với con người.
Để làm
được một cây khèn ưng ý phải mất rất nhiều công đoạn. Khèn được chế tác
bằng gỗ cùng sáu ống trúc lớn, nhỏ, dài, ngắn khác nhau. Sáu ống trúc tượng
trưng cho sáu anh em tụ hợp trên cùng cây khèn, được xếp khéo léo, song song
trên thân khèn. Khèn có lưỡi gà làm bằng kim loại. Lưỡi gà được chế tác bằng
đồng dát mỏng. Lưỡi gà kêu vang được gọi là “đồng hưởng”. Lưỡi gà đầu gắn hạt
sáp lớn thì âm trầm, gắn hạt sáp nhỏ thì âm bổng. Làm được chiếc lưỡi gà ưng ý
phải qua nhiều công đoạn và kỳ công trong chế tác. Thông thường, người Mông hay
chọn những đồng xu, hay vỏ đạn (bằng đồng) để làm lưỡi gà. Họ ngồi bên bờ suối
lựa chọn những hòn đá ráp mịn, mài bằng tay dưới nước cho đến khi nào chúng
phát ra âm thanh chuẩn mới thôi. Lưỡi gà chuẩn tùy thuộc vào chiều dài và độ
dày của ống trúc. Thân khèn được lựa chọn từ gỗ thông đá mọc trên núi cao.
Thanh gỗ được sấy khô cho tiệt hết tinh dầu và nhựa rồi được hơ qua hơ lại trên
lửa, sau đó sấy ít nhất hai đến ba tháng ở trên các bếp để ăn khói. Khèn Mông
có 6 ống: ống dài nhất là 100cm, ống thứ hai dài 93cm, ống thứ ba 83cm, ống thứ
tư 77cm, ống thứ năm là 72cm, ống thứ sáu là 54cm.
Để tìm và làm được một ống khèn Mông vừa tròn, vừa dầy, vừa
dẻo, khó vỡ, khó bẹp, các chàng trai phải đi vào tận trong rừng sâu có núi đá,
thường thì họ đi ba đến năm ngày, có khi hàng tháng mới tìm được ống trúc ưng
ý. Ống trúc không được già quá cũng không được non quá. Trúc được phơi sương và
hong trong nắng, trong bóng râm, ít nhất là hai đến ba tháng. Khi đem ra để
làm, họ phải lau bằng nước chanh quả hoặc cơm mẻ để trả lại mầu vàng óng tự
nhiên của thân trúc. Phần đai quấn quanh ống được làm bằng dây gai. Dây gai
được sấy trên gác bếp, ngâm vào nước cho dẻo mềm, dai không khác gì da thuộc,
nhưng lại có ưu điểm mềm mỏng, dễ thắt nút. Mầu của dây gai đen nâu nổi bật
trên nền trúc vàng óng, mầu gỗ vàng ngà...
Cây khèn là nhạc cụ độc đáo, có thể thổi hơi ra, có thể hít
hơi vào. Khèn vừa là đạo cụ múa có cấu tạo phù hợp với dáng khum người và các
thế quay, nhảy. Tiếng khèn có thể một lúc phát ra đa âm, nhiều lúc vang xa trầm
hùng như tiếng của gió ngàn, của suối reo, chim kêu, vượn hót, tiết tấu theo
nhịp 4/4 hoặc 2/4 thích hợp với các động tác múa khèn. Khi các chàng trai Mông
múa khèn trông như một vũ đạo rất đẹp mắt với những bước nhún, bước đảo, bước
quay hoặc vừa ôm khèn vừa lăn mình trên đất… Động tác múa khèn rất phong phú và
đa dạng với những tổ hợp múa như: nhảy đưa chân, nhảy lướt, quay đổi chỗ, nhảy
ngang đạp chân, bước trườn, bước lượn, ngoáy chân, đánh chân tại chỗ, quay di
động, quay nhích gót, đá gót chân, chọi gà v.v…
Trong đó, mô típ chủ đạo là
quay hất gót tại chỗ và quay hất gót di động trên vòng quay lớn rồi thu hẹp dần
theo hình xoáy ốc. Khèn Mông chỉ có đàn ông Mông thổi trong dịp lễ hội Gầu Tào,
làm ma, hay thổi cho người chết. Thổi khèn đi kèm với múa của các em gái Mông,
chân đá chân lướt đều và những vòng lộn cùng khèn hòa với men rượu, thắng cố,
mèn mén, giữa núi rừng bao la. Múa khèn với các vũ điệu đẹp, tài hoa, dũng mãnh
và trữ tình thể hiện sức sống mãnh liệt trên đại ngàn gió và nắng của núi rừng
Tây Bắc.
Hiện nay,
với sự phát triển và hội nhập giữa các nền văn hóa, các loại hình nhạc cụ dân
tộc của đồng bào không chỉ đơn thuần đóng vai trò là một vật dụng riêng trong
các gia đình mà còn trở thành một sản phẩm du lịch rất được ưa chuộng. Khèn
Mông được bán ở chợ vùng cao, các gian giới thiệu và trưng bày sản phẩm. Một số
gia đình của người Mông ở Trạm Tấu, Mù Cang Chải làm khèn bán để tăng thu nhập.
Từ những yếu tố đó cũng là cơ sở để nhiều loại hình nhạc cụ độc đáo của dân tộc
trở thành phương tiện giao lưu văn hóa, như sáo mũi của dân tộc Xa Phó, khèn
Mông, khèn bè, pí pặp, pí ló, pí thiu (dân tộc Thái), đã làm cầu nối giữa các
dân tộc trong các cuộc thi và hội diễn nghệ thuật quần chúng các cấp, đồng thời
làm đẹp thêm cho một nền văn hóa cộng đồng đậm đà bản sắc dân tộc Việt
Nam.
---o0o---
Videos
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét