ĐINH LĂNG, THUỐC BỔ TĂNG LỰC
Theo Sức Khỏe & Đời Sống
---o0o---
Đinh lăng là một cây
thuốc họ nhân sâm. Cây nhỏ, xanh tốt quanh năm. Ở Việt Nam, đinh lăng được
trồng phân tán ở khắp nơi để làm cảnh, lá làm gia vị, rễ làm thuốc.
Bộ phận dùng làm thuốc
là rễ củ thu hái vào mùa thu. Cây trồng sau 7-10 năm mới được thu hoạch, cây
càng già, năng suất và chất lượng rễ càng cao. Rửa sạch rễ củ, thái mỏng phơi
khô ở chỗ mát và thoáng gió để bảo đảm mùi thơm và phẩm chất. Khi dùng, để
nguyên hoặc tẩm rượu gừng 5%. Sao qua, rồi tẩm 5% mật ong, sao thơm.
Công dụng
Rễ đinh lăng được dùng làm thuốc
bổ, tăng lực, chữa cơ thể suy nhược, gầy yếu, mệt mỏi, tiêu hóa kém, phụ nữ sau
khi đẻ ít sữa. Có nơi còn dùng chữa ho, ho ra máu, đau tử cung, kiết lỵ và làm
thuốc lợi tiểu, chống độc.
Lá đinh lăng chữa cảm sốt, mụn
nhọt sưng tấy, sưng vú, dị ứng mẩn ngứa, vết thương. Thân và cành chữa thấp
khớp, đau lưng. Ngày dùng 4-6g rễ hoặc 30-50g thân cành dạng thuốc sắc. Có thể
dùng rễ khô tán bột, hoặc rễ tươi ngâm rượu uống. Dùng ngoài: lá tươi giã đắp.
Ở Ấn Độ, đinh lăng
được dùng làm thuốc làm săn chắc và trị sốt. Rễ và lá đinh lăng sắc uống có tác
dụng lợi tiểu, chữa sỏi thận, sỏi bàng quang, chứng khó tiểu tiện. Bột lá được
giã với muối, đắp trị vết thương.
Bài thuốc có đinh lăng
Thuốc tăng lực,
chữa mỏi mệt, biếng hoạt động: Rễ đinh lăng phơi khô
thái mỏng 5g, thêm 100ml nước, đun sôi trong 15 phút, chia 2-3 lần uống trong
ngày.
Chữa thiếu máu: Rễ đinh lăng, hà thủ ô, thục địa, hoàng tinh, mỗi vị 100g, tam thất
20g, tán bột, sắc uống ngày 100g bột hỗn hợp.
Thuốc lợi sữa: Lá đinh lăng tươi 50-100g, chân giò lợn (từ khuỷu chân trở xuống) 2
cái, cùng nấu cháo với gạo nếp, ninh nhừ, ăn chân giò và ăn cháo.
Chữa tắc tia sữa,
căng vú, sưng vú: Cành lá đinh lăng 40-50g, thêm 400ml
nước, sắc còn 200ml, uống nóng, chia 2 lần uống trong ngày.
Chữa sốt lâu ngày,
nhức đầu, háo khát, ho, đau tức ngực, nước tiểu vàng: Đinh lăng tươi (rễ, cành) 30g, lá hoặc vỏ chanh 10g, vỏ quýt 10g, sài
hồ (rễ, lá, cành) 20g, lá tre tươi 20g, cam thảo dây hoặc cam thảo đất 30g, rau
má tươi 30g, chua me đất 20g. Các vị cắt nhỏ, đổ ngập nước, ấn chặt, sắc đặc
lấy 250ml, chia uống 3 lần trong ngày.
Chữa mẩn ngứa do dị
ứng: Lá đinh lăng 80g, sao vàng, sắc
uống. Dùng trong 2-3 tháng.
Chữa đau tử cung: Cành và lá đinh lăng rửa sạch, sao vàng, sắc uống thay nước chè.
Chữa liệt dương: Rễ đinh lăng, hoài sơn, ý dĩ, hoàng tinh, hà thủ ô, kỷ tử, long nhãn,
cám nếp, mỗi vị 12g; trâu cổ, cao ban long, mỗi vị 8g; sa nhân 6g. Sắc uống
ngày 1 thang.
Chữa sốt rét: Rễ đinh lăng, sài hồ, mỗi vị 20g; rau má 16g; lá tre, cam thảo nam,
mỗi vị 12g; bán hạ (sao vàng) 8g; gừng 6g. Sắc uống ngày 1 thang.
Chữa viêm gan mạn
tính: Rễ đinh lăng 12g; nhân trần 20g; ý
dĩ 16g; chi tử, hoài sơn, biển đậu, rễ cỏ tranh, xa tiền tử, ngũ gia bì, mỗi vị
12g; uất kim, nghệ, ngưu tất, mỗi vị 8g. Sắc uống ngày 1 thang.
Cần lưu ý có nhiều
loại đinh lăng: loại lá tròn, lá xẻ nhỏ, lá xẻ to. Loại đinh lăng được dùng phổ
biến làm thuốc là loài lá xẻ nhỏ.
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét