ĐÁ QUÝ – HỔ
PHÁCH
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hổ
phách, có khi được
gọi là huyết phách, minh phách, hồng tùng chi, tên khoa học là succinum, là nhựa của các loài cây lá kim đã hóa đá (hóa thạch) từ
xa xưa, chủ yếu là nhựa loài thông cổ Pityoxylon succinifer Kauss nay đã tuyệt chủng. Các phân tích cho thấy hổ phách có
công thức cấu tạo là C40H64O4, viết gọn là (C10H16O)4.
Hổ phách thường gặp dưới dạng khối nhựa
cứng hoặc dạng nhũ đá với các khối to nhỏ không đều nhau, nhìn trong suốt với
màu rất đẹp; một số trường hợp còn thấy rõ trong mảnh hổ phách chứa các động
vật hóa thạch nguyên vẹn.
Đem đun nóng, hổ phách tỏa mùi hương dễ
chịu. Hổ phách dẫn nhiệt rất kém. Thales đã phát hiện ra từ 600 năm trước Công
nguyên rằng khi chà xát liên tục vào miếng vải hoặc miếng len thì hổ phách sinh
điện.
Hổ phách được sử dụng trong nhiều công
nghệ. Đông y cổ truyền cho rằng hổ phách có vị ngọt, tính bình vào bốn kinh tâm,
can, tỳ, phế và bàng quang; có tác dụng an thần, định kinh, lợi tiểu tiện, tán
ư huyết; chỉ dành cho người hỏa suy, thủy thịnh.
Vì dễ mài giũa và cắt gọt, hổ phách trở
thành vật liệu quý đối với ngành thủ công mỹ nghệ: tạc tượng, làm
nhiều món trang sức đắt tiền như mặt nhẫn, sợi dây chuyền, cườm tay, hoa tai,
v.v...
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét