Những nhà khoa học và
những nhà tư tưởng (9)
9. Alexander Fleming
BKTT wikipedia
-o0o-
Alexander Fleming
(6/8/1881 – 11/3/1955) là một bác sĩ, nhà sinh học và đồng thời là một nhà dược
lý học người Scotland. Ông được coi là người mở ra kỷ nguyên sử dụng kháng sinh
trong y học. Ông đã được trao Giải thưởng Nobel về Y học năm 19945 cùng với
Ernst Boris Chain và Howard Walter Florey về việc tìm ra và phân tách được
penicillin – được coi là loại kháng sinh đầu tiên trong việc điều trị những
bệnh nhiễm trùng.
Alexander Fleming sinh năm 1881 ở Lochfield, Scotland,
phía Bắc nước Anh. Đây là một vùng công nghiệp phát triển nhưng vì sự kiểm soát
không tốt, kèm theo khí hậu ẩm ướt nên môi trường bị ô nhiễm nặng nề. Trong
điều kiện như thế, nhiều loại bệnh đã xảy ra ở đây, đặc biệt là các bệnh nhiễm
trùng như viêm phổi, bạch hầu, viêm màng não mủ, nhiễm trùng huyết ... Từ nhỏ,
Fleming đã chứng kiến một số người thân của mình bị những căn bệnh ấy cướp đi
mạng sống. Cũng chính vì thế, từ khi còn bé Fleming đã quyết tâm sẽ trở thành
một bác sĩ để cứu giúp những người bệnh.
Từ những năm học trung học, Fleming đã có xu hướng học
lệch về các môn sinh vật, hóa học. Khi nộp hồ sơ vào đại học, ông đã ghi danh
vào khoa Y, Học viện Y học Saint Mary ở Luân Đôn.
Fleming đã thi đậu
vào nơi ông muốn học. Ông luôn dẫn đầu lớp trong các môn học, nhất là các môn
về miễn dịch học. Khi vừa tốt nghiệp năm 1906, ông được nhận làm phụ tá cho Almroth
Wright, một người đi tiên phong trong lãnh vực vắc-xin.
Năm 1914, chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ.
Alexander Fleming buộc phải dừng công việc nghiên cứu, bị gọi nhập ngũ và phục
vụ ở quân y viện ngoài chiến trường.
Trong vòng 4 năm phục vụ trong quân đội, Fleming đã chứng
kiến nhiều binh sĩ không chết trên chiến trường mà lại chết trên giường điều
trị của quân y viện, mà phần lớn những cái chết ấy là do vết thương bị nhiễm
trùng. Điều ấy khiến ông rất buồn, và nhận ra cần phải tìm ra một chất kháng
khuẩn đủ hiệu lực, để khống chế sự nhiễm trùng của các vết thương.
Sau khi chiến tranh kết thúc, Fleming được giải ngũ, ông
trở lại phòng thí nghiệm ngày xưa ở Học viện Saint Mary và tiếp tục công việc
nghiên cứu bỏ dở của mình.
Năm 1922, sau nhiều năm nghiên cứu không thu được kết quả
đáng kể nào, thì một lần tình cờ Fleming phát hiện một đĩa nuôi cấy vi khuẩn mà
ông vô tình hắt hơi vào, sau 3 ngày được ủ trong tủ ấm, ở đĩa cấy đó khuẩn lạc
không mọc được ở chỗ có dịch từ mũi ông rơi vào. Cho rằng trong các dịch của cơ
thể người tiết ra có một chất có khả năng ức chế sự sinh trưởng của vi khuẩn,
Fleming cùng người trợ lý của mình đã lấy mẫu tiến hành thí nghiệm với nước
mắt, nước mũi, nước bọt, dịch vị... của người. Kết quả đều giống nhau, chúng
đều có tác dụng ức chế tương tự nhau.
Và sau đó không lâu, Alexander Fleming đã cho công bố về
việc phát hiện ra một chất mà ông gọi là lysozyme, một chất do chính cơ thể con
người tạo ra, có thể tiêu diệt một số vi khuẩn, nhưng theo ông thì nó không thể
diệt một số vi khuẩn có hại đặc biệt với loài người.
Lysozyme là phát hiện độc đáo, nhưng vai trò kháng khuẩn
không rộng, không có tác dụng trên nhiều loại vi khuẩn gây hại. Nhưng cũng nhờ
phát minh này, Fleming trở nên nổi tiếng, được giới y học Anh biết đến.
Mặc dù được tạo điều
kiện làm việc tốt ở Đại học Luân Đôn, nhưng Fleming và trợ lý của mình vẫn thực
hiện những nghiên cứu của mình tại phòng thí nghiệm cũ của Học viện Saint Mary.
Trong một thời gian dài, ông đã thực hiện các thí nghiệm nuôi cấy liên cầu
khuẩn. Nhưng vì điều kiện dụng cụ, thiết bị lúc đó còn thô sơ nên việc tránh sự
tạp nhiễm của các loại vi khuẩn, nấm mốc khác vào các hộp nuôi cấy là rất khó
khăn.
Vào ngày 28 tháng 9 năm 1928, khi người phụ tá của
Fleming mở một đĩa đã cấy vi khuẩn để lấy vi khuẩn đi nghiên cứu thì anh phát
hiện thấy trong đĩa ấy xuất hiện một loại nấm màu xanh nhạt. Báo cáo với
Fleming về điều này, sau đó anh đem đổ đĩa ấy vào một cái đĩa khác, lúc ấy trên
đĩa cũ còn lưu lại những đường vân xanh của loại nấm màu xanh lam ấy. Fleming
thấy vậy, ông nghĩ rằng đó là dấu vết lưu lại của những vi khuẩn đã chết, ông
bèn lấy một giọt dịch của đĩa petri bỏ đi ấy đem quan sát dưới kính hiển vi,
thật ngạc nhiên khi ông phát hiện rằng không hề có dấu vết của liên cầu khuẩn
trong đó.
Điều này đã khiến Fleming cho rằng loại nấm xanh đó đã
tiết ra một chất có khả năng ức chế sự sinh trưởng của vi khuẩn, vì thế ông đã
chuyển sang nuôi cấy loại nấm đó. Sau đó ông cho sợi nấm vào các dung dịch chứa
vi khuẩn thương hàn, vi khuẩn lỵ, phế cầu khuẩn, não mô cầu ... Kết quả cho
thấy các loại vi khuẩn thương hàn, lỵ... vẫn phát triển mạnh bình thường, còn
các loại cầu khuẩn kia lại chết hết toàn bộ. Lúc này, Alexander Fleming tin
rằng phán đoán của mình là chính xác.
Giáo sư Fleming đã đem phát hiện của mình ra công bố vào
năm 1929, đồng thời ông cũng nói rằng vào lúc đó ông chưa thể chiết tách được
penicilin từ nấm Penicilin. Trong 10 năm sau đó, ông âm thầm làm các công việc
khác trong khi vẫn tìm cách chiết tách penicilin, còn báo cáo của ông về
penicilin dần rơi vào quên lãng khi giới y học lúc đó cho rằng nấm chỉ đem lại
bệnh tật, chứ không thể chữa bệnh được.
Năm 1938, Fleming
nhận được thư của hai nhà khoa học từ trường Đại học Oxford là Ernst Boris
Chain và Howard Walter Florey, với lời đề nghị được hợp tác với ông để tiếp tục
thực hiện công trình nghiên cứu về penicilin. Và sự hợp tác đã mang lại thành
công, tháng 8 năm 1940, báo cáo kết quả nghiên cứu đã được công bố trên tập san
khoa học Lancer.
Năm 1941, nhóm đã chọn được loại nấm penicilin ưu việt
nhất là chủng Penicilin Chrysogenium, chế ra loại penicilin có hoạt tính cao
hơn cả triệu lần penicilin do Fleming tìm thấy lần đầu năm 1928.
Trong Thế chiến thứ hai, thương
binh cần nhiều kháng sinh, lúc này penicilin trở nên cần thiết, và từ năm 1943
Anh và Mỹ đã sản xuất penicilin với quy mô công nghiệp, để chữa trị các bệnh
hiễm trùng trên phạm vi rộng.
Lúc này, phát minh của Fleming đã được cả thế giới công
nhận. Vì vậy, năm 1945, giáo sư Alexander Fleming được tặng giải thưởng Nobel
về y học, cùng với Ernst Boris Chain và Howard Walter Florey. Alexander Fleming
còn là hội viên Hội Khoa học Hoàng gia Luân Đôn, là viện sĩ Viện Hàn lâm Hhoa
học Paris, và từng làm Chủ tịch Hội Vi sinh vật Anh, làm hiệu trưởng trường Đại
học Edimburgh từ năm 1951 đến năm 1954, là viện sĩ danh dự của nhiều viện hàn
lâm khoa học trên thế giới, và ông được Hoàng gia Anh phong tước hiệp sĩ năm
1944.
Alexander Fleming qua đời năm 1955, khi ông 74 tuổi. Một
lễ tang đơn giản đã được tiến hành tại nghĩa trang của nhà thờ Thánh Paul, Luân
Đôn.
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét