Lịch sử Đức Phật
Thích Ca (5/6)
-o0o-
25. An cư kiết hạ
Sự nghiệp giáo hóa và thuyết pháp của Đức Phật kéo dài 45
năm, từ năm Đức Phật thành đạo lúc 35 tuổi cho đến năm tuổi 80, Đức Phật nhập
Niết bàn. Năm này qua năm khác, Đức Phật đi nơi này nơi kia, khi thì đi một
mình, khi thì có đông đảo đệ tử đi theo, thuyết pháp độ sanh, giáo hóa quần
chúng bằng gương sáng cao cả của bản thân, và bằng lời lẽ đầy trí tuệ. Chỉ vào
mùa mưa, ở Ấn Độ, thông thường giữa tháng 7 và tháng 11, Đức Phật nghỉ lại
trong các tu viện và thuyết pháp tại chỗ, không đi ra ngoài. Tục lệ này gọi là
An cư kiết hạ, được Tăng ni Phật tử duy trì liên tục cho đến ngày nay, ở khắp
các nước có Phật giáo. Vào mùa an cư kiết hạ, quần chúng là tín đồ hay không
tín đồ, hàng ngày kéo đến đông đảo tại tu viện hay công viên, nơi có Đức Phật
và Chư Tăng trú ngụ, để được nghe thuyết pháp, cúng dường Phật và Chư Tăng.
26. Đức Phật và vua Pasenadi xứ Kosala
Như đã nói trên, trong 45 năm giáo hóa và thuyết pháp độ
sanh, Đức Phật hoặc một mình, hoặc cùng với đông đảo học trò đi lại nhiều nơi ở
vùng trung châu sông Hằng. Nhưng thời gian dài nhất, Đức Phật ở tại Savatthi,
kinh đô của vương quốc Kosala.
Cũng như Trưởng giả Anathapindika, vua Pasenadi (Ba Tư
Nặc) xứ Kosala là một thí chủ lớn của Đức Phật và Chư Tăng. Ở Savatthi, ngoài
Tinh Xá Jetavana của ông Anathapindika cúng dường Đức Phật, còn có tu viện
Rajakarama do vua Pasenadi xây cất, để cúng dường Phật và Chư Tăng.
Hoàng hậu Malika, vợ vua cũng là một tín đồ thuần thành
của Đức Phật và khéo hướng dẫn giúp đỡ vua một cách tốt đẹp trong các vấn đề
tôn giáo. Có lần, vua nằm thấy liên tiếp 16 cơn mộng bất thường, các đạo sĩ Ba
la môn ở trong triều nói đó là điềm gở và khuyên vua phải tổ chức tế đàn lớn,
giết nhiều sinh vật để cúng tế thì mới tai qua nạn khỏi. Vua cũng nghe theo và
chuẩn bị tổ chức tế đàn.
Khi Hoàng hậu Malika biết tin, bà khuyên vua, thay vì tổ
chức tế đàn, hãy yết kiến Phật và hỏi Ngài về ý nghĩa của 16 cơn mộng. Và vua
được yên tâm, sau khi nghe Phật giải thích đầy đủ về 16 cơn mộng bất thường của
vua. Vua bèn thôi không tổ chức tế đàn nữa.
Một niềm hạnh phúc lớn của vua Pasenadi là được nghe Đức
Phật thuyết pháp nhiều lần. Tương Ưng Bộ Kinh có một chương đặc biệt, có đầu đề
"Tương Ưng Kosala" ghi lại phần lớn các bài thuyết pháp của Đức Phật
cho vua Pasenadi. Sau đây xin trích giới thiệu nội dung vài đoạn trong chương
Kosala Tương Ưng:
a) Đánh giá một người
là thế nào không phải là chuyện đơn giản.
Một lần, vua Pasenadi ngồi bên cạnh Phật, tại lâu đài
Migaramatu, thì thấy có một số du sĩ ngoại đạo đi ngang gần đấy. Người thì bện
tóc, người thì lõa thể, người thì chỉ mặc một y. Vua hỏi Đức Phật là trong số
các du sĩ đó, ai là người đã chứng quả A la hán, ai là người đang trên đường
tiến tới chứng quả A la hán. Đức Phật trả lời là đối với nhà vua đang sống
trong vòng dục lạc, dùng các loại hương chiên đàn từ xứ Kasi, trang sức với
vòng hoa, hương thơm, dầu sáp, dùng nhiều vàng bạc, thì thật là khó biết trong
số các du sĩ vừa đi qua, ai là A La Hán và ai đang trên con đường tiến tới
chứng quả A La Hán. Hơn nữa phải cùng sống lâu với một người, lại phải biết chú
ý, xem xét và phải có trí tuệ, thì mới có thể biết được người đó có giới hạnh
hay không, phải cùng chung một nghề, mới biết được một người có thanh tịnh hay
không, phải qua sự thử thách của một thời gian bất hạnh mới biết được một người
có trung kiên hay không, phải qua đàm đạo với một người mới biết được người đó
có trí tuệ hay không. Hơn nữa, phải trải qua một thời gian dài có chú ý, xem
xét và phải có trí tuệ thì mới có thể đánh giá một con người là thế nào,... Và
cuối cùng Đức Phật khuyên vua xem xét người, không nên chỉ nhìn bộ mặt bề
ngoài, có thể là giả dối che đậy.
b) Đức Phật khuyên
coi trọng phụ nữ, ngang hàng với nam giới.
Một lần, vua Pasenadi, được tin Hoàng hậu Malika hạ sanh
con gái, tỏ vẻ không vui. Đức Phật, biết tâm trạng đó của vua, bèn đọc bài kệ:
"Này nhân chủ ở đời
Có một số thiếu nữ
Có thể tốt đẹp hơn
So sánh với con trai
Có trí tuệ giới đức
Khiến nhạc mẫu thánh phục
Rồi sanh được con trai
Là anh hùng, quốc chủ
Người con trai như vậy,
Của người mẹ hiền đức
Thật xứng là đạo sư
Giáo giới cho toàn quốc". (Tương Ưng I, 104)
c)
Không nên coi thường Tỳ kheo trẻ.
Có lần vua Pasenadi hỏi vì sao, Đức Phật tuổi còn trẻ và
xuất gia chưa bao lâu, mà chứng được quả Vô thượng Chánh đẳng giác, là quả
Thánh cao nhất mà nhiều vị giáo chủ khác, tuy tuổi đời và đạo đều cao hơn Đức
Phật, nhưng thừa nhận rằng mình chưa đạt tới được. Đức Phật trả lời, có bốn cái
trẻ không thể coi thường. Thứ nhất là Sát đế lỵ trẻ (võ tướng trẻ thuộc đẳng
cấp Sát đế lỵ), thứ hai là con rắn trẻ, thứ ba là ngọn lửa trẻ (mới nhen nhúm
lên), và thứ tư là Tỳ kheo trẻ.
Ý từ Đức Phật là vị võ tướng trẻ có thể chiếm thiên hạ,
rắn trẻ có thể cắn chết người, ngọn lửa trẻ có thể đốt cháy cánh đồng lớn, Tỳ
kheo trẻ - nếu tinh tấn tu hành - có thể chứng quả Thánh.
d) Chiến thắng nuôi
dưỡng hận thù.
Pasenadi, làm vua xứ Kosala hùng mạnh không tránh khỏi
chiến tranh với các nước láng giềng, đặc biệt là với chính cháu mình là
Ajatasattu, vua xứ Magadha. Có khi vua Pasenadi bại trận, có khi vua Pasenadi
chiến thắng, thậm chí có lần bắt sống được vua Ajatasattu. Vì vua Pasenadi là
người có tâm địa tốt, sùng kính Phật, cho nên khi bắt sống được vua Ajatasattu,
vua chỉ tịch thu toàn bộ binh mã, còn thì tha cho vua Ajatasattu trở về.
Khi các Tỳ kheo thuật lại chuyện này với Đức Phật. Ngài
nói lên hai bài kệ. Bài đầu, khi vua Pasenadi thất trận:
"Thắng trận sinh thù oán
Bại trận nếm khổ đau
Ai bỏ thắng bỏ bại,
Tịch tịnh hưởng an lạc". (Tương Ưng I, 102)
Bài kệ thứ hai, Đức Phật nói lên khi nghe các Tỳ kheo
thuật chuyện vua Pasenadi thắng trận và bắt sống được vua Ajatasattu:
"Vì nghĩ đến tư lợi,
Nên mới cướp hại người
Khi người khác cướp lại,
Bị hại lại hại người
Người ngu nghĩ như vậy,
Khi ác chưa chín muồi
Người ngu chịu khổ đau,
Sát người, bị người sát
Thắng người, bị người thắng
Mắng người, người mắng lại.
Não người, người não lại
Do nghiệp được diễn tiến
Bị hại, lại hại người". (Tương Ưng I, 103)
27. Đức Phật và nữ thí chủ Visakha
Cũng tại Savathi, Đức Phật còn có thêm một tinh xá thứ ba
nữa, do nữ thí chủ Visakha xây. Tinh xá gọi là Pubbarama. Đức Phật và Tăng
chúng đã trải qua sáu mùa kiết hạ tại Tinh xá này của bà Visakha. Bà là con gái
nhà triệu phú Dhananjaya, mẹ là Sumanà Devi và ông nội của bà cũng là một nhà
triệu phú tên là Mendaka.
Ngay từ năm bà lên 7 tuổi, bà được may mắn gặp Đức Phật,
khi Đức Phật đến Bhaddiya, nơi sinh quán của Bà, tại vương quốc Anga. Do có trí
thông minh và đạo đức bẩm sinh, sau khi nghe Phật giảng pháp, mặc dù tuổi còn
nhỏ, bà cũng chứng Sơ quả (Sotapanna).
Bà có một người chồng giàu có, Punnavadhana, con trai nhà
triệu phú Migàra. Bố chồng vốn là một tín đồ thuần thành của Nigantha
Nataputta, vị giáo chủ của đạo Jain. Bà đã khéo léo xin được phép mời Đức Phật
đến nhà chồng thụ trai và sau đó, thuyết pháp cho cả gia đình nghe. Bố chồng
cũng nghe nhưng ngồi sau một bức màn. Vào cuối bài thuyết pháp của Đức Phật, bố
chồng giác ngộ, chứng ngay Sơ quả. Cả gia đình chồng trở thành một gia đình
Phật tử hạnh phúc và thuần thành.
Bà yêu cầu Đức Phật đồng ý cho bà được làm tám việc đối
với Tăng chúng như sau:
Tặng áo cà sa cho Tăng chúng vào mùa kiết hạ, từ nay cho
đến ngày bà qua đời.
Cúng dường cho tất cả Tỳ kheo đến Savathi.
Cúng dường cho tất cả Tỳ kheo ra khỏi Savathi.
Cúng dường thức ăn cho Tỳ kheo ốm.
Cúng dường thức ăn cho những ai săn sóc người ốm.
Cúng dường thuốc men cho Tý kheo ốm.
Cúng dường cháo cho Tỳ kheo.
Cúng dường áo tắm cho Tỳ kheo ni.
Đức Phật vui vẻ nhận lời, Đức Phật nhiều lần thuyết pháp
cho bà Visakha. Trong một bài thuyết pháp, Đức Phật có nói tới tám giới cho
Phật tử tại gia nên theo trong những ngày Bố Tát (Uposatha). Hiện nay, tám giới
này vẫn được Phật tử theo, trong các ngày Bố Tát ở các nước có đạo Phật.
Bà Visakha là nữ thí chủ lớn nhất của Đức Phật và Tăng
chúng, cũng như ông Anathapindika là nam thí chủ lớn nhất.
28. Đức Phật và vua Bimbisara
Bimbisara (Tần Ba Sa La) là vua xứ Magadha, có kinh đô ở
thành Rajagaha (Vương Xá). Vua từng gặp Đức Phật khi Phật mới xuất gia, và yêu
cầu Đức Phật trở lại thăm vương quốc của vua, sau ngày thành đạo. Giữ đúng lời
hứa cũ, Đức Phật cùng với đông đảo các vị A la hán đệ tử, đi từ Gaya đến thủ đô
Rajagaha, và nghỉ tại đền Suppatittha trong một rừng cây cọ dừa. Đươc tin, vua
Bimbirasa cùng với quần thần đông đảo đến chào Đức Phật và Tăng chúng.
Vì trong số đệ tử đi theo hầu Đức Phật, có Tôn giả
Kassapa vốn có uy tín lớn trong quần chúng ở đây, cho nên nhiều người phân vân
không rõ ai là bậc Đạo Sư, Đức Phật hay là Tôn giả Kassapa. Đức Phật biết rõ
mối phân vân đó của quần chúng, bèn hỏi ông Kassapa vì nguyên nhân gì ông bỏ
tập tục tế thần lửa. Ông Kassapa thưa rằng, ông bỏ tập tục tế thần lửa, vì ông
nhận thấy cảnh giới Niết bàn an tịnh, cao quý hơn nhiều so với dục lạc thế
gian. Nói xong ông đảnh lễ Phật và nói: "Đức Thế Tôn là bậc Đạo Sư, con là
đệ tử của Ngài".
Đức Phật bèn giảng kinh bổn sanh của ông Kassapa cho mọi
người nghe, kể rằng trong một kiếp trước, Đức Phật cũng đã từng độ cho ông
Kassapa ở xứ Narada. Được nghe Phật thuyết pháp, vua Bimbisara chứng ngay Sơ
quả. Hôm sau, vua thết trai tăng ở hoàng cung, mời Phật và Tăng chúng tham dự.
Sau đó, vua tặng Đức Phật và Tăng chúng công viên Trúc Lâm, trong đó có đền Con
Sóc và Tinh Xá Veluvanaràma, nơi đây Đức Phật trải qua 6 mùa an cư kiết hạ.
Bà Khema, vợ thứ của vua, sau này xuất gi và cùng với bà
Gotami, lãnh đạo Ni chúng. Còn Hoàng hậu chánh thất của vua là bà Kosala Devi,
con gái vua Pasenadi xứ Kosala. Con bà Kosala Devi là Ajatasattu (A Xà Thế),
sau này cướp ngôi và giết vua cha, đó là do nghiệp quá khứ của vua Bimbisara
quá nặng nề. Nhưng vì vua đã chứng Sơ quả, cho nên cái chết của vua cũng nhẹ
nhàng, đỡ phần bi thảm và sau khi qua đời, vua lập tức sanh lên cõi trời
Lummaharajika với cái tên thiên chủ Janavasabba.
Ajatasattu sau khi cùng với Devadatta âm mưu giết hại
Phật không thành, biết ăn năn hối lỗi, xin Phật cho quy y và trở thành một Phật
tử tại gia hàng đầu của Đức Phật. Do nghiệp quá khứ nặng nề, cho nên đến lượt
ông, ông cũng bị con ông giết và cướp ngôi.
29. Đức Phật và tướng cướp Angulimala
Một sự kiện đáng ghi nhớ, đánh dấu năm thứ 20 ngày thành
đạo là Đức Phật giác ngộ cho Angulimala, tên tướng cướp khét tiếng hung ác của
xứ Kosala. Tên thật của Angulimala là Ahimsaka (Kẻ vô tội). Cha ông vốn là một
quan chức trong triều vua xứ Kosala. Thời niên thiếu, ông theo học ở Taxila, là
trung tâm học vấn nổi tiếng đương thời ở Bắc Ấn Độ. Ông học rất giỏi và được
thầy yêu thương nhất trong số các học sinh. Điều không may là các bạn đồng học
ghen tỵ ông, vu cáo ông với thầy giáo và ông thầy giáo cả tin đâm ra căm thù
ông, và muốn giết ông bằng cách bắt ông trả học phí bằng 1000 ngón tay phải của
con người. Angulimala phải vâng lời thầy, mặc dù rất khổ tâm. Ông bèn rút lui
vào rừng Jalini ở Kosala và bắt đầu giết người để có đủ số ngón tay cần thiết.
Ban đầu, ông treo các ngón tay người trên cây, nhưng vì
các ngón tay bị quạ mổ ăn, cho nên ông xâu ngón tay người lại thành vòng để đeo
nơi cổ; do đó ông có tên Angulimala (vòng ngón tay). Sách kể rằng, khi ông đã
thu thập được 999 ngón tay, thời Đức Phật xuất hiện. Angulimala rất mừng vì sắp
có đủ số ngón tay cần thiết để nộp cho ông thầy giáo ác độc, Angulimala rút
gươm, chạy đuổi theo Phật.
Vì Đức Phật dùng phép thần thông, nên Angulimala càng
đuổi nhanh, càng không bắt kịp được Phật, mặc dù Phật vẫn đi khoan thai từ từ.
Cuối cùng, thở hỗn hển và ướt đẫm mồ hôi, Angulimala đứng lại và gọi: "Này
Tu sĩ, hãy dừng chân". Đức Phật nói bằng giọng từ tốn: "Mặc dù ta
đang đi, nhưng ta đã dừng chân. Còn nhà ngươi đã dừng chân hay chưa?"
Angulimala không hiểu ý tứ câu nói của Đức Phật như thế
nào? Bởi vì Đức Phật đang đi, lại nói là đã dừng chân. Còn Angulimala đã dừng
chân rồi, thì Phật lại bảo "Hãy dừng chân!" Angulimala hỏi Phật và
được Phật giải thích như sau:
"Đúng là ta đã dừng mãi mãi, này Angulimala,
Không bao giờ dùng bạo lực với chúng sanh.
Còn nhà ngươi, hãy dừng tay chớ có giết hại đồng loại
Vì vậy mà Ta nói rằng, Ta đã dừng,
Và bảo ngươi cũng hãy dừng tay!"
Nghiệp thiện ngày xưa của Angulimala tác động vào tư
tưởng của ông, và ông biết rằng, ông đang đứng trước mặt Đức Phật Thích Ca,
Ngài đã vì lòng thương xót ông mà đến cứu ông ra khỏi vòng tội lõi. Ông vứt
gươm xuống đất, xin Đức Phật cho ông được xuất gia làm Tăng. Đức Phật chỉ nói
một câu đơn giản: "Ehi Bikkhu" (Hãy đến ! Tỳ kheo).
Thế nhưng, mặc dù xuất gia, tinh thần của Tỳ kheo
Angulimala vẫn không được yên ổn. Thường xuyên, ông bị ám ảnh bởi tiếng kêu
khóc của những người ông đã sát hại. Một hôm, đi khất thực, ông bị quần chúng
đuổi đánh, ném đá, ông trở về tu viện, lỗ đầu, chảy máu. Đức Phật giải thích
cho Angulimala biết, đó là Angulimala trả nợ nghiệp ác cũ của mình.
Một ngày, Angulimala đi khất thực, gặp một người đàn bà
trở dạ, khó sanh và đang vô cùng đau đớn. Không biết làm sao được, Angulimala
trở về hỏi Đức Phật. Đức Phật bày cho Angulimala đem lời sau đây nói với người
đàn bà:
"Này bà chị, từ khi tôi sanh trở lại trong hàng
Thánh chúng, tôi không có giết hại bất cứ một loại hữu tinh nào. Cầu mong lời
nói thật này giúp cho bà chị được khỏi đau đớn, con của bà chị được sanh nở an
toàn".
Angulimala học thuộc lời Đức Phật, và đến nói với người
đàn bà đau đớn, khó sanh. Lập tức, người đàn bà hết đau, và hạ sanh đứa con dễ
dàng. Lời nầy của Đức Phật được gọi là Angulimala Paritta. Ngày nay, ở các xứ
Phật giáo Nam phương, người ta vẫn có tập tục đọc lời Angulimala Paritta để làm
dịu cơn đau đẻ của phụ nữ.
Sau này, Angulimala chứng quả A la hán.
30. Đức Phật và kỹ nữ Ambapali
Ambapali là người kỹ nữ nổi danh tài sắc của thành phố
Vesali. Trên đường đi Kusinara, để nhập Niết bàn, Đức Phật dừng lại Vesali, và
nghỉ ở vườn xoài của Ambapali. Được tin, Ambapali đến chào Đức Phật, và trân
trọng mời Đức Phật và chúng Tăng đến dùng tiệc trai ngày mai tại nhà bà. Đức
Phật nhận lời, và từ chối lời mời của hàng quý tộc Liechavi. Họ hứa trả bà
Ambapali một số tiền rất lớn, để bà nhường lại cho quý tộc Liechavi đặc ân được
thiết cơm Phật và chúng Tăng nhưng bà từ chối và hôm sau, y lời hẹn, Đức Phật
và chúng Tăng đến với nhà bà Ambapali dùng tiệc trai. Sau bữa tiệc, Ambapali
kính tặng Đức Phật và chúng Tăng vườn xoài to lớn của bà để làm Tinh xá. Sau
này, Ambapali cũng xuất gia và chứng quả A la hán.
Hai sự kiện Angulimala và Ambapali cho thấy, cửa Đạo Từ
Bi mở rộng cho tất cả mọi người, không phân biệt giàu sang, nghèo hèn và đẳng
cấp xã hội. Một tướng cướp như Angulimala, một dâm nữ như Ambapali, nếu thành
tâm hối lỗi, cũng có thể xuất gia, tinh tấn tu học và chứng Thánh quả cao nhất.
Một lòng tin thuần thành, và một nỗ lực lớn nhất: đó là điều kiện cơ bản để đi
vào đạo Thánh và trở thành bậc Thánh trên thế giới này. Đạo Phật không đòi hỏi
một điều kiện nào khác.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Tỳ kheo Thích Minh Châu
---ooo0ooo—
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét