Bước
vào cõi Phật – Quyển 2 – Bài 21. Trưởng giả Cấp Cô Độc
Cố Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú
-o0o-
21.
TRƯỞNG GIẢ CẤP CÔ ĐỘC
1.
Khi tụng kinh A-Di-Đà, cũng
như khi tụng nhiều kinh khác, Phật tử chúng ta bắt đầu bằng câu : “Chính tôi được
nghe : vào một thời kia, đức Phật trụ ở vườn Cấp Cô Độc, rặng cây Kỳ đà, thuộc
nước Xá -Vệ, …”.
Cấp Cô Độc là ai? Có liên hệ gì với
Phật giáo thời đức Thế Tôn còn tại thế?
Hôm nay, chúng tôi xin trình bày vài
điều về vị trưởng giả Cấp Cô Độc ấy, người được gọi là một đại hộ pháp của Phật
giáo.
2. Tại kinh thành
Xá-Vệ nước Câu-Tất-La do vua Ba-Tư-Nặc trị vì, có một vị thương gia tên là Tu-Đạt-Đa
rất giầu có, được coi là người giầu nhất nước. Dinh cơ của ông thật to lớn
tráng lệ, gia nhân của ông hết sức đông đảo. Một điểm đặc biệt nơi ông là lòng từ
thiện rất rộng rãi, lúc nào ông cũng tích cực giúp đỡ những người nghèo đói, khổ
sở, già nua, bệnh tật, cô đơn. Vì thế người ta gọi ông là Cấp Cô Độc (nghĩa là
chu cấp cho những người cô độc) hay là Chẩn tế bần phạp (chẩn tế nghĩa là giúp
đỡ, bần phạp nghĩa là nghèo túng), Cấp chư cô lão (cô lão nghĩa là người già cô
đơn). Được người đời xưng tụng như thế, hẳn là hạnh bố thí của ông phải cao lắm!
Theo tiếng Phạn thì danh hiệu ấy của ông viết là Anātthapindika, trong đó anāttha nghĩa là không được ai che chở và
pindika nghĩa là dân nghèo. (1)
Ông Tu-Đạt-Đa có gia đình : ông có vợ
và ba con gái, một con trai. Bà Tu-Đạt-Đa tên là Punnalakkhana (tên này có
nghĩa là người phụ nữ có phúc tướng), bà là một người hiền lành, đối xử với gia
nhân có độ lượng nên được kính mến. Cũng như chồng, bà là một Phật tử thuần
thành, một trong các nữ tín đồ đầu tiên của đức Phật, và thường xuyên thành tâm
hộ trì Tam Bảo. Cả ba cô con gái đều là người đức hạnh, thấm nhuần chánh pháp,
y giáo tu hành, và đều đắc quả. Riêng người con trai thì hàng ngày chỉ mài miệt
trong công việc kinh doanh và chăm lo quản trị tài sản khổng lồ của gia đình,
ít chú tâm tu tập nhưng sau được cha hướng dẫn vào đường Đạo và theo được gương
sáng của cha, trở thành một đại hộ pháp
và cũng đắc quả.
3. Thời bấy giờ, khi
mới thành đạo vô thượng bồ-đề, đức Phật Thích-Ca đến thành Vương Xá, kinh đô nước
Ma-Kiệt-Đà do vua Tần-Bà-Sa-La trị vì. “Vua Tần-Bà-Sa-La quy y Phật, cúng cảnh
Trúc Viên cho Phật và ngôi Tam Bảo, để Phật an trụ nơi đó mà truyền bá đạo lý.
Vua cất luôn nơi đó cảnh Tinh xá rất trang nghiêm, có đủ nhà giảng, tăng phòng
và mọi đồ vật dụng cho Giáo Hội. Tại Trúc Viên, Phật dạy đạo cho mấy vị đệ tử đại
danh đầu tiên như các ngài Xá-Lỵ-Phất, Mục-Kiền-Liên, Ma-Ha Ca-Diếp v.v… Cảnh
Trúc Viên là ngôi Tinh xá trước nhất mà người ta dâng cúng cho Giáo Hội vậy”
(theo Phật học Từ điển của Đoàn Trung
Còn).
Một ngày kia, do công việc buôn bán,
ông Cấp Cô Độc đi từ thành Xá-Vệ tới thành Ma-Kiệt-Đà. Ông tới ngụ tại nhà một
người anh rể và cũng là một bạn thân. Thấy gia đình này đang bận rộn tíu tít,
hình như đang lo thu xếp đón tiếp quốc vương hay là đón một vị thượng khách nào
đó, ông ngạc nhiên.
Hỏi rõ thì biết rằng họ đang sửa soạn
cung nghinh đức Phật và chư Tăng. Thì ra người anh rể của ông Cấp Cô Độc, cũng
là một đại phú thương, đã quy y Tam Bảo và đã phát tâm cúng dường Giáo Hội một
số tịnh cốc.
Ông Cấp Cô Độc nghe nói đến Phật
đang ở gần thì thao thức suốt đêm, mới sáng tinh mơ ông đã tìm đường tới Trúc
Lâm tịnh xá.
Tới nơi, trong làn sương buổi sớm,
ông thấy ở đằng trước ông một người đang đi kinh hành. Bỗng người ấy quay lại,
gọi đích tên thực của ông bằng một giọng rất hiền hòa. Vô cùng kinh ngạc, ông cảm
thấy một sức mạnh vô hình kéo ông tiến lên và khi đến gần, ông vội sụp lạy, đó
chính là đức Phật. Ông vấn an Ngài và được Ngài chúc lành. Rồi ông theo chân
Ngài đi kinh hành. Vừa đi Ngài vừa giảng giải căn bản Pháp Bảo cho ông. Khi
Ngài nhận thấy thiện căn của ông đã lộ rõ, tâm thức đã khai mở, Ngài bèn thuyết
Tứ Diệu Đế cho ông. Lành thay! Ông giác ngộ, hiểu vạn pháp đúng như sự thật và
tin tưởng sâu xa, vững chắc vào Đạo Giải Thoát, ông đắc quả tu-đà-hoàn.
4. Đức Phật được anh
rể của ông Cấp Cô Độc cung thỉnh đến nhà để cúng dàng trai tăng. Nhân dịp này,
ông Cấp Cô Độc xin Ngài cho ông được xây cất một tinh xá tại thành Xá-Vệ ở nước
ông là nước Câu-Tất-La. Ngài bảo ông rằng chư Phật chỉ ưng những nơi thanh tịnh.
Ông hiểu ý Ngài và thưa rằng ông sẽ tìm một nơi an tịnh gần Xá-Vệ.
Về đến nhà, sau khi cố gắng, ông tìm
được một khu rừng thưa cây gần thành
Xá-Vệ thuộc quyền sở hữu của thái tử Kỳ Đà, con vua Ba-Tư-Nặc. Ông hỏi mua
nhưng thái tử không có ý bán. Thấy ông khẩn khoản mãi, thái tử ra giá thật cao,
cốt ý cho ông thoái chí. Không ngờ ông ưng thuận điều kiện trải vàng kín cả khoảng
đất mà ông muốn mua. Thái tử phải chịu vậy. Ông Cấp Cô Độc bèn cho gia nhân chở
vàng đến phủ kín đất nhưng chỉ vừa đủ đất để xây chùa mà thôi nên phải về chở
thêm.
Hết sức xúc động trước đạo tâm và hạnh
bố thí cúng dường của vị thí chủ ấy, thái tử Kỳ Đà bảo ngưng chở vàng và chính
ông cũng phát tâm cúng dường vùng đất cùng cây cối còn lại. Hơn thế nữa, khi
ông Cấp Cô Độc cho thợ xây cất chính điện, tịnh thất và giảng đường, trai đường,
tăng phòng, đường kinh hành với mọi căn nhà phụ thuộc cùng ao sen, giếng nước
v.v… thì thái tử sai xây cất mọi thứ ngoại vi như tường bao, cổng ra vào, sân cỏ,
vườn cảnh với hoa lá màu sắc xinh tươi. Chính vì lý do này mà sách vở về sau gọi
tên nơi này là Kỳ thụ Cấp Cô Độc viên nghĩa là cây của thái tử Kỳ Đà, vườn của
ông Cấp Cô Độc. Người ta cũng gọi ngắn là Kỳ Viên.
5. Xong việc xây cất,
ông Cấp Cô Độc cung thỉnh đức Phật tới
nơi làm lễ lạc thành để ông dâng hiến ngôi chùa có tính cách quan trong trong lịch
sử Phật giáo. Đức Phật thuyết pháp độ sinh trong 45 năm, Ngài đã nhập hạ 19 lần
ở Kỳ Viên, việc ấy cho chúng ta thấy rằng nơi này quả thật có tính cách thiêng
liêng.
Khi đức Phật và chư Tăng an trú tại
Kỳ Viên thì ông Cấp Cô Độc cùng gia đình và gia nhân chăm lo về mọi phương diện.
Danh từ Phật học nói gọn là tứ sự cúng dường,
nghĩa là thức ăn, quần áo, nơi ở giường nằm và thuốc men. Trong thực tế, ông Cấp
Cô Độc còn chú ý đến nhiều chi tiết khác như săn sóc vườn hoa cây cảnh, cây cối
lớn nhỏ, giếng nước cùng hồ tắm v.v… Không những ông là một đại hộ pháp của
chùa Kỳ Viên mà ông còn là đại hộ pháp của chư
tăng không cư ngụ trong Kỳ Viên: ông thường cúng dàng
trai tăng, có khi trong nhà ông có tới hàng ngàn vị được cung thỉnh, như
thế ta biết rằng dinh cơ biệt thự của ông lớn đến chừng nào.
Có một lần, địa phương của ông Cấp
Cô Độc bị một cơn bão lụt lớn, tài sản của ông coi như tiêu tán: nhà cửa bị đổ
nát, tiền bạc bị cuốn trôi. Dù bị đẩy vào cảnh nghèo khó, ông vẫn tận tâm cúng
dàng Tăng Bảo trong phạm vi tài lực của mình. Nhưng do sức phù hộ của các thiên
thần hay nói cách khác, do phúc nghiệp vĩ đại của ông, chẳng bao lâu ông lại trở
nên giàu có, mà giàu có hơn trước nữa, để tiếp tục công việc hộ pháp của mình.
6. Không phải lúc
nào đức Phật cũng trụ tại Kỳ Viên vì Ngài còn phải đi hoằng pháp nhiều nơi khắp
lưu vực sông Hằng. Những lúc ấy, ông Cấp Cô Độc không thể hàng ngày đến lễ bái
hầu hạ Ngài được. Ông bèn xin với chư Thánh tăng giúp ông có cách gì để hàng
ngày nhớ đến đức Phật, chiêm ngưỡng và lễ bái. Ngài A-Nan bạch chuyện ấy với đức
Thế Tôn và được Ngài dạy rằng có ba hình thức là bảo tháp tức đền thờ, thánh địa
tức nơi ghi dấu các di tích và cuối cùng là nơi lưu giữ những vật kỷ niệm. Suy
nghĩ kỹ, ông Cấp Cô Độc chọn cách thứ ba là đem trồng một nhánh cây bồ-đề tại cổng
của Kỳ Viên. Ngài Mục-Kiền-Liên dùng thần thông giúp ông việc này: ngài tới Khổ
Hạnh Lâm, cạnh sông Ni-Liên-Thiền, bẻ một nhánh cây bồ-đề là nơi đức Phật ngồi
nhập định trước khi thành đạo, đem về cho ông. Ông Tu-Bồ-Đề được vua Ba-Tư-Nặc
nhường cho cái vinh dự trồng cây bồ-đề này. Nhà vua nghĩ rằng tuy đất nằm trong
lãnh thổ của nhà vua nhưng với việc gieo mầm Phật giáo trên cả nước thì rõ ràng
là ông Cấp Cô Độc là người xứng đáng nhất để nhận vinh dự ấy.
7. Khi ông Cấp Cô Độc
bị bệnh nặng thì hai thánh tăng là trưởng lão Xá-Lỵ-Phất và tôn giả A-Nan đến
thăm. Ngài Xá-Lỵ-Phất nhận thấy ông Cấp Cô Độc sắp lìa đời bèn thuyết pháp cho
ông, đại ý khuyên ông dứt khoát buông xả sự dính mắc với lục căn, tách rời tâm
thức ra khỏi lục trần, không cho lục thức duyên theo lục trần nữa. Ngài A- Nan
khuyên ông giữ tâm bình thản, thanh tịnh.
Khi Ngài Xá-Lỵ-Phất cho ông biết rằng
những lời thuyết pháp ấy chỉ để dành cho các vị xuất gia nhưng nay đem thuyết
cho ông vì tâm của ông không khác gì tâm của một vị đại sa-môn, ông Cấp Cô Độc
thỉnh cầu đức Phật và chư Thánh tăng ban cho hàng cư sĩ tại gia nhiều phạm hạnh
được nghe các bài pháp nhiệm mầu như vậy. Sau đó, ông Cấp Cô Độc nhập chánh định
và xả báo thân ngũ uẩn, giác linh của ông được lên cõi trời Đâu-Suất.
Phật học Từ điển của Đoàn Trung Còn ghi rằng : “ Trong Soạn tập bá duyên kinh đức Phật có thọ
ký cho ông Cấp Cô Độc quả bồ-đề vô thượng, mách rằng trong ba a-tăng-kỳ kiếp,
ông Cấp Cô Độc sẽ thành Phật hiệu là Abhayaprada (Cấp cho sự yên ổn)”.
Cuốn sách nhỏ nhan đề Sự tích Tu-Đà Cấp Cô Độc của Hellmut
Hecker, do Nguyễn Điều dịch, cho biết rằng : “Điều đáng tưởng niệm và ngưỡng mộ
vị cố đại ân nhân Phật giáo ở đây là sau khi gia nhập Thiên chúng, “ông” là vị
thiên thần hộ trì Tam Bảo nhiệt thành nhất. Theo kinh sách kể lại thì chùa Kỳ
Viên, sau lễ hỏa táng Tu-Đà, có nhiều đêm được Thiên chúng viếng thăm. Hào
quang sáng rực. Vị dẫn đầu chư Thiên thần ấy dĩ nhiên là giác linh cố cư sĩ
Tu-Đà Cấp Cô Độc”.
Sách ấy còn cho biết : “Trong mười
tám bài pháp nói đến Tu-Đà Cấp Cô Độc ghi trong Tạng kinh, có mười bốn bài do đức
Phật tùy cơ duyên tự nói ra, một bài Phật thuyết do Tu-Đà đặt câu hỏi, một bài
khác Phật giảng sau khi nghe Tu-Đà thuật chuyện đã đối thoại với những đạo sĩ
Bà-la-môn giáo. Và sau cùng là hai bài pháp do tôn giả A-Nan và trưởng lão Xá-Lỵ-Phất
đến bên giường bệnh của Tu-Đà để nhắc nhở. Mười tám bài pháp này chứng tỏ rằng
trong kho tàng Phật giáo, hẳn đã có một phần quan trọng dành riêng cho người cư sĩ hay Phật tử tại gia, khi họ
muốn đạt đến thánh quả mà không cần sống trong Giáo Hội!”
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét