Nghệ thuật thiền họa và vườn cảnh
3. Vườn cảnh Nhật Bản
Cư sĩ Trần Kiêm Đạt
---o0o---
Ngoài hội họa còn
nghệ thuật làm vườn cũng là lãnh vực rất sâu rộng. Nghệ thuật làm
vườn cảnh được sử dụng lâu đời ở vùng Viễn Đông. Những tướng quân
Muromachi ở Nhật đã theo những khuôn mẫu của văn hóa triều
Heian. Họ thường xây dựng vườn chung quanh những nhà
thủy tạ giữa các hồ. Công trình xây dựng thông thường gồm có:
một ngôi chùa để thờ phượng, một phòng đơn giản để hành Thiền
và trà đạo. Vườn ở chung quanh. Cách bố trí như vậy theo kiểu
mẫu ở ngôi đền Ginkakuji.
Đây là sự kết hợp
giữa mô típ bản xứ với vưòn cảnh kiểu nước ngoài. Những
chất liệu chính là vườn, nước và cát; đây là hình ảnh cảnh giới
Tây Phương được mô tả trong kinh A Di Đà. Một mái chùa bằng gỗ gợi
lên hình ảnh quen thuộc những đền chùa Thần Đạo (Shinto) và Phật
Giáo thời đại Heian; những cửa sổ của tầng hai là kiểu lập lại
mô típ bệ thờ (Chaitya); m phượng hoàng trên mái nhà
theo phong cách điêu khắc đền Byodoin nổi tiếng. Vấn đề
căn bản là trang trí đơn giản, thông thoáng, kích cỡ khiêm tốn sao cho
phù hợp với tinh thần tự chế của Thiền. Kiểu cấu trúc này được gọi
là Byodo-in. Đây là một trong những ngôi chùa Thiền tông mà nghệ
thuật vườn cảnh đã đạt đỉnh cao nhất; từ đó lan tỏa khắp nơi.
Hầu hết các đền chùa Nhật đều giành một khoảng không gian để
tạo vườn cảnh.
Cách bố cục thường
mang tính trừu tượng, hàm súc mà không thô thiển. Một ít tảng đá,
một đụn cát được bố trí phiá trước một sân dùng để thiền hành. Từ xa, có thể
thấy được vẻ tự nhiên của cảnh quan này. Tại Nhật, khi nói đến
vườn cảnh thì nhắc đến những vườn đá nổi tiếng Ryoanji tại cố
đô Kyoto.
Ta thấy gì ở đây: 15 tảng đá được sắp xếp hết sức nghệ thuật,
tinh xảo trên đụn cát; mỗi chi tiết đều được đặt ở những vị
trí chính xác. Người đến thưởng ngoạn cảnh này thường phải suy
nghiệm và phân tách, mới thấu triệt hết ý nghĩa. Đá và cát
là hai giai đoạn của thành, trụ, hoại, diệt. Rồi một ngày nào,
những tảng đá kia mòn dần trở thành cát. Vạn vật đều như thế cả.
Tại Nhật, hàng
trăm cuốn sách viết về vườn cảnh, nhưng vẫn còn thấy thiếu. Thiếu là
vì sức sáng tạo ngày càng chuyên sâu, càng khám phá.
4. Âm nhạc Nhật và Thiền.
Trong những dòng
thơ Thiền của Nhật Bản có một đoạn viết về âm sắc như sau:
"Chuông ngân giữa trời không; Tiếng sáo tre gợi nhớ. Đưa hồn về
nguyên sơ". Thiền sư Nhật thường viết và suy tư về những âm điệu từ
cây sáo tre.
Theo truyền thuyết ghi
trong cuốn Kojiki (Cổ Sự Ký) thì cây sáo tre dạng ống tiêu (người Trung
Hoa gọi là Xiao) được các nhà sư Nhật Bản sang Trung
Quốc du học mang về nước vào thời đại Nara. Vào thế kỷ VIII, và sau
đó được truyền bá và thu dụng làm một loại nhạc ghi trong ban nhạc
cung đình (gagaku) của Thiên Hoàng sau này. Tiêu cung đình Nhật Bản đầu mô phỏng
theo tiêu của Trung Quốc, gồm nhiều ống trúc ghép lại với nhau, mỗi
ống là một âm khác nhau. Nhưng dần dà về sau, qua những cải cách, người ta chỉ
còn lấy một ống khoét thành nhiều lỗ trên thân, dùng cho tất cả các
âm.
Ống tiêu lúc đó
chia 2 loại: một loại không có miệng dùng để chỉnh âm, hơi được
thổi qua lỗ khoét. Loại khác có miệng, khắc theo hình chữ V, chơi trong các ban
nhạc biểu diễn. Loại tiêu có miệng này người Nhật gọi là
"Shakuhachi" (Xích bát) có nghĩa là "một thước tám" (dài
khoảng 54cm). Sau thời Nara, tiêu cũng lãng quên. Mãi đến thế kỷ XV, loại
tiêu này được phục hồi, cải biến ngắn hơn, gọi là "hitoyogiri".
Ngoài ra, loại tiêu này khấc hình chữ V, quay đỉnh vào bên trong;
còn tiêu cung đình của Nhật và của Trung Hoa thì quay đỉnh ra ngoài. Tiêu
hitoyogiri có 5 lỗ chuẩn tương đương với năm âm:
cung, thương, giốc, chủy, vũ (tương ứng với các nốt nhạc: Fa, Sol, La, Do,
Ré) và được các nhà sư Nhật tu theo hạnh Đầu Đà (Kuke) phục chế để
dùng trong các buổi lễ. Ở Edo (Tokyo
ngày nay) vào thế kỷ XVIII, giới võ sĩ (samourai) từng sống nhờ bảo
vệ các lãnh chúa bỗng nhiên trở nên thất nghiệp vì trong nước trở lại thanh
bình.
Nhiều người sa cơ lỡ
vận gọi là "ronin" (lãng nhân) đã gia nhập hàng ngũ du tăng khất sĩ
"kumoso" (hư vô tăng); có người lập nên chùa riêng. Vì có lệnh
triều đình cấm mang gươm, cho nên các
ronin đã cải chế các loại tiêu hitoyogiri to hơn, dài hơn, có
đầu cong lên, để khi chơi nhạc họ có thể thổi đầu nhỏ; khi
cần chiến đấu, họ dùng đầu gốc phang chém dễ dàng. Theo truyền
khẩu, chế độ Mạc Phủ đã cho phép một số ronin cải trang thành tu sĩ để do thám
các kumoso; họ len lỏi vào các chùa, vừa đi vừa thổi tiêu, hết nơi này đến nơi
khác. Để phân biệt, dân chúng gọi họ là "komuso" nghĩa là
"chẳng ra thể thống gì". Tuy vậy, tiếng tiêu cũng như tiếng tụng kinh
đã không vì vậy mà mất ý nghĩa thanh cao. Trong thời kỳ này, loại tiêu Shakuhachi
chia ra nhiều môn phái khác nhau. Có môn phái như Kim-ryo chuyên luyện hơi thở
(quán sổ tức) và dùng kỹ thuật này để thổi tiêu.
Môn phái Kinko
thì sưu tầm những ca khúc trong dân gian truyền thống, do
Kinki Kurosawa thực hiện. Những ca khúc này đến nay vẫn còn
truyền bá, gọi là "36 bài cổ nhạc của Kinko". Vào thời
Minh Trị Thiên Hoàng lại có thêm môn phái Tozan, tổng hợp tinh
hoa của tiêu Shakuhachi. Cho đến khi chế độ Mạc Phủ lụi tàn,
giới võ sĩ phân tán thì tiêu cũng thay đổi. Những nét thô cứng
không còn; thay vào đó là loại tiêu có dáng cong, trông thanh tao
hơn. Để tạo âm thanh, người thổi tiêu trề môi thổi vào mép của ống sáo
như lối thổi tiêu của ta. Lượng hơi thổi vào, kết hợp với tay bấm hàng lỗ, tạo
âm giai khác nhau. Tiếng tiêu cũng đi vào nghệ thuật Thiền qua những nhạc sĩ điêu luyện về âm
pháp và luôn trì thủ tâm hồn tĩnh lặng.
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét