Bước vào cõi Phật – Quyển 2 – Bài 8. Lục tổ Huệ Năng
Cố Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú
-o0o-
8. LỤC TỔ HUỆ NĂNG
Tại
chùa chúng ta đây, trong thời gian qua, Hòa thượng đã giảng kinh Pháp Bảo Đàn (tên đầy đủ là Lục Tổ Huệ Năng Pháp Bảo Đàn kinh). Từ
trước, chúng ta biết rằng chữ kinh dùng để chỉ những sách ghi lại lời dạy của đức
Phật Thích-Ca. Kinh Pháp Bảo Đàn ghi lại tiểu sử và lời dạy của Lục Tổ Thiền
tông là ngài Huệ Năng, kinh này không do Phật thuyết mà cũng được gọi là kinh,
lý do là các đệ tử của ngài tuân theo lời dặn của ngài mà viết như vậy. Ngoài
ra, quyển kinh này rất quý không những đối với Thiền tông mà với tất cả những
ai học Phật.
Lục tổ
Huệ Năng
Hôm nay
tôi nói về ngài Lục Tổ, công việc không khó lắm vì quý vị còn nhớ nhiều về phẩm
đầu tiên tức là Hành Do, và phẩm cuối cùng tức là phẩm Phó Chúc ghi lại tiểu sử của ngài do chính ngài và đệ
tử kể, tôi chỉ cố tóm tắt sao cho gọn.
Nhưng phần khó mà ban Hoằng pháp chờ đợi ở tôi là nêu ra những điều đặc
sắc của Lục Tổ.
Tổ Bồ Đề
Đạt Ma
Tổ thứ
28 của Phật giáo là ngài Bồ-Đề-Đạt-Ma từ Ấn-Độ sang Trung Hoa sáng lập ra Thiền
Tông nên được kể là sơ tổ Thiền Tông.
Các vị tiếp theo là Huệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng Nhẫn. Tổ thứ sáu
là ngài Huệ Năng.
Ngài Huệ
Năng (638? – 713?). mồ côi cha từ sớm, nhà nghèo, không được đi học, kiếm củi
bán lấy tiền nuôi mẹ. Một hôm, đi giao củi,
qua nhà kia, nghe người ta tụng kinh thì thấy trí bừng sáng. Người tụng kinh đó cho biết đó là kinh Kim Cang, học nơi Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn
ở núi Hoàng Mai. Ngài thu xếp việc nhà,
đến yết kiến Ngũ Tổ. Qua mấy lời vấn
đáp, Ngũ Tổ biết ngay ngài sẽ là người kế thừa nhưng chưa nói gì, giao cho việc
giã gạo dưới bếp. Chi tiết quan trọng nhất
mà chúng ta cần nhớ là sự truyền y bát từ
Ngũ Tổ sang Lục Tổ và sự phân chia Thiền Tông thành hai ngành Nam và Bắc tức là
Đốn và Tiệm (= nhanh và chậm) do hai ngài Huệ Năng và Thần Tú cầm đầu.
Vắn tắt
như sau này: Ngũ Tổ ra lệnh cho môn đệ làm mỗi người một bài kệ để ngài xem
trình độ. Không ai dám làm vì nghĩ rằng
đương nhiên thượng tọa Thần Tú là người xứng đáng nhất để “nối nghiệp” Ngũ Tổ. Bài kệ của ngài Thần Tú là: “Thân là cội bồ-đề,
Tâm như đài gương sáng, Luôn luôn phải lau chùi, Chớ để dính bui bặm.”. Ngài Huệ
Năng không biết chữ, nghe người ta kể lại bài kệ đó, bèn nhờ người viết hộ bài
kệ của mình như sau: “Bồ-đề vốn không cây, Gương sáng cũng chẳng đài, Xưa nay
không một vật, Chỗ nào dính bụi bặm?”.
Ngũ Tổ
hiểu ngay ai là người có trình độ cao hơn. Ngài bí mật gọi ngài Huệ Năng vào
tăng phòng, giảng kinh Kim Cang cho
nghe, đến câu “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” (= không trụ vào đâu mà sinh tâm)
thì ngài ngộ. Ngũ Tổ truyền y bát cho
ngài, ra lệnh cho ngài đi về phương Nam, ẩn dật tránh hiểm nguy (vì có người muốn
cướp y bát), đợi sau sẽ ra hoằng pháp độ sinh.
Trong
hơn 15 năm trốn tránh trong rừng, sống cùng với thợ săn, ngài vẫn là một cư sĩ,
chưa có ai làm lễ thế phát cho ngài. Khi
ngài tới chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu, thì pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh. Hai thày tăng thấy gió thổi lá phướn, một
thày nói: gió động; thày kia nói: phướn động.
Lục Tổ bảo: Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, mà là tâm các
ông động!
Nghe được
chuyện này, pháp sư Ấn Tông mời ngài tới hỏi chuyện và biết ngài chính là người
được truyền y bát. Ngài Ấn Tông làm lễ
thế phát cho ngài và tôn ngài làm thày.
Ngài lưu lại chùa Pháp Tánh ít lâu rồi về trụ tại chùa Bảo Lâm, gần Tào
Khê (không xa Quảng Châu ngày nay, Quảng Châu tức là Canton). Ngài thuyết pháp độ sanh trong bốn chục năm.
Vào năm
713, ngài sai môn đồ sửa soạn thuyền để về Tân Châu, tại đó có chùa Quốc Ân là
nơi ngài đã trụ trì và đã cho xây sẵn tháp.
Mọi người hiểu, buồn bã, thỉnh ngài nán lại, ngài dạy: “Có đến ắt có đi,
đó là việc thường”. Về đến chùa Quốc Ân,
tắm gội xong, ngài bảo “Ta đi đây”, ngài ngồi kiết già, an nhiên thị tịch. Môn
đồ rước hài cốt ngài về nhập tháp bên suối Tào Khê. Y do Ngũ Tổ truyền, bát do vua ban và tượng của
ngài được thờ trong chùa Bảo Lâm, sau đổi tên là chùa Nam Hoa.
Lục tổ
sống 76 tuổi, 24 tuổi được truyền y, 39 tuổi mới thế phát, nói pháp lợi sanh 37
năm, đệ tử nối pháp có 43 người, người ngộ đạo thì rất nhiều. Không truyền y,
truyền bát, ngài chỉ truyền pháp mà thôi.
Nói đến
Lục Tổ, người ta luôn luôn chú ý đến chi tiết ngài không biết chữ. Ni cô Vô
Tận Tạng hỏi chữ trong kinh Niết-bàn,
ngài bảo: “Chữ thì không biết, nghĩa thì cứ hỏi”. Ni cô thắc mắc: “Chữ không biết, làm sao hiểu
nghĩa?”. Ngài đáp: “Diệu lý của chư Phật
đâu có quan hệ gì tới văn tự”.
Nhà sư
Pháp Đạt, tụng kinh Pháp Hoa mấy ngàn lần, có ý kiêu ngạo, nhưng không hiểu
tông chỉ của kinh. Lục tổ bảo: “Tôi
không biết chữ, ông thử lấy kinh ra, tụng một biến, tôi sẽ vì ông giải nói”. Mới
đến phẩm Thí dụ, ngài đã nắm được ý của kinh rồi, nói cho Pháp Đạt nghe, giảng
rộng cho hiểu, nên Pháp Đạt bừng tỉnh ngộ!
Chúng
ta có thể “đánh dấu hỏi” về việc một đại sư mà mù chữ! Tôi nghĩ rằng điểm này khó kiểm chứng đối với
độc giả thời nay, nhưng việc chính có lẽ là nêu ra câu “bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền” của Thiền Tông. Không nệ vào chữ , chỉ căn cứ vào nghĩa. Hai chuyện kể trên đây muốn nói lên và nhấn
thật mạnh vào cái lập trường đó. [Chúng ta nên để ý rằng Thiền Tông không nệ
vào chữ chứ không phải vất bỏ kinh sách.
Hai việc khác nhau! ]
Trong đạo
Phật đại thừa, hai tư tưởng trung tâm là Trí huệ bát-nhã và Pháp tánh. Nhiều kinh sách đã nêu ra hai ý này. Riêng Lục Tổ, ngài luôn luôn nhắc đến hai ý
này, bàng bạc suốt kinh Pháp Bảo Đàn,
chúng ta thấy ngài trình bày như vậy.
Thiền
Tông ít chú ý đến những hình thức, mà nhấn mạnh đến cái tâm, chân tâm. Khi đang trốn tránh trong rừng, ở cùng với thợ
săn, ngài cũng bẫy thú, nhưng bắt được thì phóng sinh; khi ăn thì gửi rau luộc
chung vào nồi thịt của thợ săn. Đó là
“chấp kinh tòng quyền”, nhưng ở đây, ý nghĩa rộng hơn: trong việc giữ giới,
quan trọng nhất là cái tâm. Phải tránh
giữ giới một cách hình thức, giữ giới cho xong việc!
Cũng
trong việc đả phá tu hành hình thức, Lục Tổ có nói về “niệm Phật vãng sanh Tịnh
Độ”. Lời của ngài có thể làm buồn lòng
những ai thực hành pháp môn niệm Phật, vì ngài nói: “người phương Đông tạo tội
cầu xin về Tây phương, thế thì người phương Tây tạo tội xin về đâu?”. Muốn hiểu, cần coi tiếp: “Tâm địa không có
cái bất thiện thì Tây phương cách đây chẳng xa.
Nếu ôm lòng chẳng thiện thì Tây phương khó đến”. Rõ ràng là ngài khuyên niệm Phật thì phải
“thiện”, tâm phải tịnh, vì “tâm tịnh thì độ tịnh”. Chúng ta nên hiểu thêm rằng khi đạo Phật được
truyền bá rộng rãi, thiếu tăng ni và thiện tri thức thì mê tín dị đoan và lợi dụng
xen vào và tu hành trở nên hình thức. Lục
Tổ giảng như vậy là hợp lý.
Lục Tổ
được biết đến, được nhắc đến, được tuân theo tận ngày nay, chính là vì áp dụng
đúng và mạnh chủ trương “trực chỉ nhân
tâm, kiến tánh thành Phật”. Thiền
Tông kể từ ngài trở đi chia làm hai: Nam đốn và Bắc tiệm. Ngài Huệ Năng ở phía Nam nước Tàu chủ trương
“đốn ngộ”, còn ngài Thần Tú ở phía Bắc chủ trương “tiệm ngộ”. Một đằng nhấn mạnh vào việc giác ngộ trong một
thoáng, vuợt qua những phương tiện tri thức thông thường. Một đằng theo phương pháp dần dần tiến đến
giác ngộ bằng cách học hỏi và tìm hiểu kinh sách, dĩ nhiên hai đằng cùng dùng
thiền, cùng phát xuất từ Ngũ Tổ.
Chỉ
trong có vài thế hệ, tông phái phía Bắc không còn nữa.
Trong khi ấy thì tông phái phía Nam ngày một hưng thịnh, tuy nhiên cũng
chia ra làm nhiều phái nhỏ. Đó gọi là
ngũ gia, gồm có: Lâm tế, Vi ngưỡng, Tào động, Vân môn, Pháp nhãn. Khi nghe nói Ngũ gia thất tông thì hiểu như
sau: Nam tông (Huệ Năng), Bắc tông (Thần Tú) là 2 và Ngũ gia là 5, cộng thành
7. Nói theo kiểu ngày nay thì nên gọi là
Nhị tông, Ngũ gia!
Ngũ Tổ
truyền y bát cho ngài Huệ Năng, một người chưa phải là tăng, đó là một điều lạ. Ngũ Tổ dùng kinh Kim Cang mà khai ngộ cho Lục tổ chứ không phải kinh Lăng-Già mà Sơ Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma tặng
cho Nhị Tổ Huệ Khả, điều này thế nào? Sư
Ấn Tông làm lễ thế phát (xuống tóc) cho “cư sĩ” Huệ Năng rồi tôn làm thày, việc
đó cũng ít có nếu không nói là chẳng có xưa nay.
Người
ta cho rằng tất cả các chi tiết đó đều do sự du nhập một tôn giáo Ấn-Độ vào đất
Trung hoa, sự va chạm văn hóa, hay sự trộn lẫn văn hóa đã thay đổi Thiền cổ truyền thành Thiền Tông
Trung Quốc. Ấn thì thâm trầm, ưa lý luận;
Hoa thì cần cù, thực tế; kinh Lăng-Già
dài quá, chọn kinh Kim Cang ngắn
hơn! Miễn là được việc. Điều này, xin dành cho các nhà khảo cứu. □
GHI
CHÚ. Có một bạn trẻ, sau khi nghe đoạn nói về “gió động hay phướn động” hỏi tôi
rằng: “Lục Tổ bảo rằng cả hai không động, tâm các ông động”, thế thì ra
sao? Tôi hiểu rằng bạn ấy hỏi khéo tôi,
thâm ý là: mấy bác ngồi nghe một cách thích thú, chẳng ai nêu thắc mắc gì cả. Xin nói: “Bạn được huấn luyện theo khoa học
thực nghiệm, do sự cách biệt về áp suất không khí ở hai nơi mà không khí di
chuyển, tạo ra cái mà ta gọi là gió, gió thổi vào cái phướn làm cho nó phất phới
v.v... Câu trả lời của Lục Tổ nói ra một tư tưởng quan trọng của đạo Phật, đó
là “tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”.
Câu này khó, tạm nói rằng: chuyện gió, chuyện phướn là hiện tượng
(phénomène) bên ngoài, do ngũ quan nhận ra, nhưng hãy quay vào trong, tìm cái
tâm hàng ngày xem nó ra sao, rồi tìm chân tâm tức là tìm bản thể
(essence). Mấy bạn già của tôi ngồi yên
là vì thế đó”. □
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét