Bước vào cõi Phật –
Quyển 2 – Bài 12. Tôn giả Xá Lỵ Phất
Cố Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú
12. TÔN GIẢ XÁ-LỴ-PHẤT
1. Trong chùa này, chúng ta thường tụng kinh A-Di-Đà. Đây là một trong ba kinh
căn bản của Tịnh Độ Tông; kinh ấy có một điểm đặc sắc là do đức Phật tự nói ra,
không có ai thưa thỉnh. Trong pháp hội, mở đầu bài thuyết pháp, đức Phật nói:
“Này ông Xá-Lỵ-Phất, ...”. Trong bao nhiêu bồ-tát, trưởng lão, tỳ-kheo, thiên
long bát bộ, vô lượng chư thiên đại chúng, đức Phật đã gọi tên một mình tôn giả
Xá-Lỵ-Phất! Như vậy, hẳn là đức Phật rất quí mến vị đại đệ tử ấy! Mà quả thật,
khi tôn giả Xá-Lỵ-Phất khai triển tư tưởng cô đọng của đức Phật mà rồi sau đó
có người thưa hỏi thì đức Phật đã trả lời : “Nếu các ông hỏi ta thì ta cũng sẽ
giải thích như Xá-Lỵ-Phất”. Không có lời khen ngợi nào quý báu cho bằng!
Đức Phật có mười đại đệ tử, trong đó ngài Xá-Lỵ-Phất
được coi là trí huệ đệ nhất (1). Chúng ta sẽ phải thêm rằng ngài là bậc đạo
hạnh đệ nhất!
Tôn giả Xá-Lỵ-Phất
2. Hôm nay chúng tôi xin nói vài hàng về bậc trí
tuệ đệ nhất ấy. Chữ pali ghi tên ngài là Sāriputta,
chữ sanskrit ghi là Sāripūtra. Chữ putta hay pūtra có nghĩa là “con”. Sārika
là tên của thân mẫu ngài, tên ấy có nghĩa là “chim thu”, mắt bà đẹp như mắt
chim thu. Vậy Sāriputta có nghĩa là
con của bà Sāri, hay là con của bà
Thu. Sāriputta phiên âm thành Xá-Lỵ-Phất,
phiên âm một nửa thành Xá-Lỵ Tử, dịch nghĩa là Thu Tử . Tiếng Việt đổi Lỵ thành
Lợi nên Xá-Lỵ-Phất trở thành Xá-Lợi-Phất. (2)
[Ghi chú: khi mới lọt
lòng mẹ thì tên ngài Xá-Lỵ-Phất là Upatissa].
Gia đình tôn giả Xá-Lỵ-Phất là một gia đình
giàu có, thuộc đẳng cấp bà-la-môn tức là đẳng cấp đứng đầu bốn đẳng cấp nước Ấn-Độ
thời bấy giờ, trên cả đẳng cấp sát-đế-lỵ (vua chúa), sống tại một ngôi làng ở gần
kinh đô Vương Xá của xứ Ma-Kiệt-Đà (3). Thân phụ là một luận sư danh tiếng của
giáo đoàn bà-la-môn. Thân mẫu cũng là một nhà nghị luận có biệt tài. Từ gốc gác
ấy, cậu bé Xá-Lỵ-Phất tỏ ra thông minh xuất chúng, mới tám tuổi đã thông thuộc
đủ thứ sách vở và tranh biện thắng cả người lớn. Năm 20 tuổi, với phong độ một
học giả, người thanh niên Xá-Lỵ-Phất lên đường tìm thầy học đạo, tới thụ giáo một
trong số sáu ông thầy ngoại đạo nổi danh
bấy giờ tên là Sa-Xà-Dạ (Sanjaya); nhưng chỉ ít lâu chàng không hài
lòng, vì lời giảng dạy của thầy không đáp ứng được lòng mong mỏi của chàng.
Cùng với người bạn thân, tên là Mục -Kiền-Liên, tuổi tác và học vấn tương
đương, tư tưởng và tình cảm hòa hợp, chàng từ biệt Sa-Xà-Dạ với ý định tự tìm lấy
đường tu.
Một ngày kia, trong
thành Vương Xá, tu sĩ Xá-Lỵ-Phất gặp một
đệ tử của đức Phật, đó là tỳ kheo Át-Bệ (4), một người đã chứng thánh quả sau
khi nghe Phật thuyết Tứ Diệu Đế. Khi được tu sĩ Xá-Lỵ-Phất hỏi, ngài Át-Bệ cho
biết mình là đệ tử của đức Phật, và đức Phật hiện đang ngụ tại tịnh xá Trúc Lâm
gần đó. Hỏi về giáo lý mà ngài truyền dạy, câu đáp là : “Muôn pháp do nhân duyên sanh, Cũng do nhân duyên mà diệt. Thày ta, Phật Đại Sa môn, Thường nói rõ đúng như thế”
Xá-Lỵ-Phất vừa nghe
xong thì những nghi ngờ về vũ trụ và nhân sinh của tôn giả vụt tan biến hết;
tôn giả bèn vui mừng về gặp Mục-Kiền-Liên báo cho biết mình đã tìm được bậc
minh sư. Hai người đem hai trăm đồ đệ tới
tịnh xá Trúc Lâm xin quy y Phật, và đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Thế là Ngài được
thêm hai đệ tử xuất sắc, siêu phàm. Trong vòng mươi ngày, hai vị đã đắc quả a
-la-hán. Về sau, khi hai vị nhập diệt trước ngài, đức Thế Tôn đã nói : “ Này
các tỳ-kheo, đối với ta bây giờ quả thật trống rỗng, Xá-Lỵ-Phất và Mục-Kiền-Liên
không còn!”.
3. Nghe chuyện sau đây, người ta sẽ hiểu tài biện
luận sắc sảo và học vấn uyên bác của ngài Xá-Lỵ-Phất : Vào một thời kia, ở
thành Xá-Vệ nước Câu-Tất-La, có một vị trưởng giả giàu của và giàu lòng từ thiện tên là Cấp Cô Độc
(5). Do việc buôn bán, ông có dịp đến thành Vương Xá nước Ma-Kiệt-Đà. Khi tới
vườn Trúc Lâm nghe Phật thuyết pháp, ông bèn quy y. Trở về Xá-Vệ, ông bỏ rất nhiều vàng để mua vườn cây
của thái tử Kỳ Đà, nhằm mục đích xây dựng tịnh xá Kỳ Viên rất lớn để đem cúng
dàng Giáo Hội. Tại nước ông, Phật giáo chưa bắt rễ. Đức Phật cử tôn giả Xá-Lỵ-Phất
tới nơi trông coi công việc xây cất. Ngoại đạo nơi đó ghen ghét Phật giáo, tìm
mọi cách dèm pha, sau họ nghĩ ra cách thách tôn giả Xá-Lỵ-Phất tranh luận, họ
tin rằng họ sẽ thắng và khi tôn giả bị thua, mất uy tín, sẽ phải rời đi nơi
khác. Họ quên rằng ngài là một đại luận sư từ khi còn ít tuổi, thông hiểu cả
giáo lý bà-la-môn lẫn ngoại đạo, hơn nữa nay lại là một đại đệ tử của Phật đã
chứng thánh quả. Một mình tranh luận với hàng chục sư ngoại đạo, ngài đã thắng
và cuộc tranh luận đã làm nhiều người tỉnh ngộ, xin quy y Tam Bảo.
Là một người có uy
tín lớn trong Tăng đoàn, vậy mà tôn giả Xá-Lỵ-Phất sinh hoạt hết sức đơn giản
và luôn luôn giúp đỡ và nhường nhịn đồng đạo, vì thế ngài có rất nhiều bạn và
ai cũng quý mến ngài. Không những ngài chỉ nêu gương bằng đạo hạnh của riêng
mình, không những ngài chỉ đóng vai thiện trí thức với mọi người, mà ngài còn
thường xuyên săn sóc chư tăng, luôn luôn đi quanh nơi trú ngụ của tăng đoàn, chịu
khó quét dọn để giúp cho nơi ăn chốn ở của tăng đoàn được sạch sẽ. Ở tịnh xá,
ngài săn sóc các tỳ-kheo già yếu. Trên đường đi du hóa với tăng đoàn, ngài đi
sau cùng, cốt để giúp các vị đau yếu phải đi chậm chạp. Vì thế ngài thường chậm
tới nơi. Một đêm kia, đức Phật nghe thấy tiếng ho ở dưới gốc cây, hỏi ra thì biết
rằng tôn giả Xá-Lỵ-Phất đang ngủ qua đêm ở đó; một số tăng trẻ tuổi tới trước
chiếm hết phòng, không biết dành phòng cho các trưởng lão!
Ngài hay tới thăm
ngài Át-Bệ, tỏ lòng nhớ ơn người đã chỉ đường cho mình quy y Phật (ngay cả khi
ngài Át-Bệ đi xa, ngài Xá-Lợi-Phất cũng hướng về nơi ngài Át-Bệ mà lễ). Khi đức
Phật hỏi về việc lễ bái này thì ngài đáp : “Bạch Thế Tôn, con nhớ đến công ơn của
trưởng lão Át-Bệ chỉ dạy cho con về lý Nhân Duyên, nhờ đó con mới tìm đến quy y
Tam Bảo và tu hành đến nay. Mỗi đêm, con hướng về Người để lễ lạy và nằm ngủ đầu
con hướng về đấy”. Đức Phật rất bằng lòng và nói bài kệ sau đây :
Trước
nhờ ai chỉ ta vào cửa
Hiểu sâu
chính pháp Như Lai dạy.
Hãy trang
trọng kính lễ người ấy,
Như bà-
la-môn thờ thần lửa.
(Kinh
Pháp Cú, kệ số 392, Thiện Nhựt dịch và chú giải, trang 779).
4. Hạnh nhẫn nhục của ngài thật là cao. Khi ngài
dẫn tăng chúng đến khất thực tại nhà mẹ đẻ thì bà mẹ vừa phát cho thực phẩm vừa
nguyền rủa cả con mình lẫn chư tăng, vì bà vẫn giữ đạo bà-la-môn và nhất là vì
bà hận đức Phật, lý do là tất cả bốn con trai và ba con gái của
bà đều xuất gia theo Phật (ba người con gái xuất gia sau khi mỗi người có một
con). Ngài Xá-Lỵ-Phất yên lặng thọ thực, không nói một lời, rồi ôm bình bát mà
về. Các vị tỳ-kheo trong đoàn ai cũng ngợi
khen đức nhẫn nhục của ngài. Con trai Phật là chú tiểu La-Hầu-La có mặt trong
đoàn, biết chuyện ấy, về thưa lại với đức Phật. Việc này là dịp đức Phật nói mấy
câu kệ sau này :
Chẳng sân
hận, làm tròn bổn phận,
Giới hạnh
trang nghiêm, tham ái tận,
Căn nhiếp
phục, thân này là chót,
Như Lai gọi là bà-la-môn.
(kệ số 400, sách nói trên, trang
793. Ở bài kệ số 396, đức Phật giảng : Người thoát ly luyến ái và phiền não,
Như Lai mới bảo là bà-la-môn, vậy chữ bà-la-môn ở đây nghĩa là a-la-hán).
Có một người kia thấy ngài Xá-Lỵ-Phất được xưng tán về hạnh nhẫn nhục, nảy
ra ý muốn thử xem có đúng vậy không. Người ấy đến xô thật mạnh vào ngài khi
ngài đang đi, nhưng khi thấy ngài vẫn điềm nhiên, không giận dữ thì người đó hối
hận, xin lỗi ngài rồi ôm bình bát của ngài và thỉnh ngài về nhà cúng dàng lương
thực. Một số người bất bình trước hành vi lỗ mãng của kẻ kia, kéo đến định đánh
đập trừng trị. Ngài Xá-Lỵ -Phất hỏi: “Kẻ ấy đánh ta hay đánh các ông?” - “Dạ, đánh ngài” - “Kẻ ấy đã xin lỗi ta và ta đã tha lỗi rồi;
thôi các ông đi đi”.
Ngài là một người khiêm cung, biết
trọng người khác và ý kiến của họ, đồng thời thấy rõ ưu điểm của từng người.
Ngài đến thăm tôn giả Phú-Lâu-Na (6) nhân dịp tôn giả đến yết kiến đức Phật.
Nghe tôn giả trả lời rành rẽ những câu hỏi của mình và giải thích cặn kẽ, ngài
vô cùng hoan hỷ và bày tỏ “hạnh phúc đã được gặp tôn giả”. Tôn giả Phú -Lâu-Na
bấy giờ mới biết ngài là Xá-Lợi-Phất, bèn thốt lên rằng : “Tôi đang nói chuyện
với bậc đệ tử được xem ngang hàng với đức Đạo sư mà không biết. Nếu tôi biết
ngài là tôn giả Xá-Lỵ-Phất thì tôi đã không nói nhiều như vậy!”.
Mấy chữ “được xem ngang hàng với đức Đạo sư” cho chúng ta thấy rõ mọi ưu điểm,
tài năng, từ bi và trí huệ cùng đức hạnh của tôn giả Xá-Lỵ-Phất.
5. Đọc tiểu sử của ngài, điều cảm động nhất là
lúc biết thọ mạng gần hết, ngài đến từ biệt đức Phật, xin phép về quê cũ chuẩn
bị nhập diệt tại ngay căn phòng mà mình đã ra chào đời. Ngài cố ý chọn quê nhà
vì muốn độ cho mẹ: cho đến lúc này, bà cụ một trăm tuổi vẫn chưa tin Phật pháp,
vẫn chưa quy y Tam Bảo dù rằng cả bảy người con đều đạt đạo quả.
Tuân theo lời đức Thế Tôn, tôn giả ban cho tăng chúng một thời pháp rồi tới
ôm chân đức Thế Tôn, xin được tha thứ mọi lỗi lầm trước khi ra đi. Đức Phật dạy
: “Ta tha thứ cho ông, Xá-Lỵ-Phất! Ông không có lời nói hay việc làm nào không
vừa ý ta. Ông hãy làm những việc ông thấy phải thời”. Và bảo đồ chúng : “Bây giờ,
các con hãy ra đi đưa tiễn bậc huynh trưởng của các con lần cuối”. Trong tịnh
thất, còn lại có một mình đức Thế Tôn.
Đoàn người đi tiễn tôn giả Xá-Lỵ-Phất thật là đông đảo; dân thành Xá-Vệ
cũng đi theo, khóc lóc buồn thảm. Tôn giả bảo họ quay về và dặn các huynh đệ
trông nom đức Thế Tôn. Một số đồ chúng và em ruột ngài là tôn giả Thuần Đà (8)
theo ngài trên đường về quê.
Thân mẫu tôn giả được báo trước, chuẩn bị phòng cho tôn giả và lo liệu chỗ ở
cho đoàn. Khi tôn giả lên cơn đau thì Tứ Thiên Vương, vua Đế Thích và vua Đại
Phạm Thiên (8) đến thăm. Bà mẹ hết sức ngạc nhiên vì con mình vượt lên trên cả
vị Đại Phạm Thiên mà bà vẫn thờ phụng. Con bà đã như vậy, thì đạo sư của con bà
là đức Phật hẳn là phải trang nghiêm oai đức đến ngần nào! Tôn giả Xá-Lỵ-Phất
thấy cơ duyên đã tới bèn thuyết pháp cho mẹ nghe; sau bài pháp, bà đắc quả dự
lưu.
Tôn giả cho mời chư tỳ-kheo tới và xin các vị ấy tha thứ cho mọi hành động
và lời nói của mình không vừa ý các vị ấy. Nhưng mọi người nói họ không có một
bất mãn nhỏ nào và xin tôn giả tha thứ cho họ. Tôn giả nhập Niết-bàn Vô dư
trong thế sư tử tọa. Bảy ngày sau, làm lễ trà tỳ. Tôn giả Thuần Đà mang y bát
và xá-lợi của sư huynh về trình đức Phật.
Đức Phật nói (9) : “Vị tỳ-kheo ấy là người thành tựu các hạnh ba-la-mật trải
qua vô lượng kiếp. Vị tỳ-kheo ấy là người đã giúp ta chuyển bánh xe pháp. Vị tỳ-kheo
ấy là người được chỗ ngồi bên ta. Vị tỳ-kheo ấy là người trong cõi Tam thiên thế
giới không có ai sánh kịp về trí tuệ, chỉ trừ đức Như Lai. Vị tỳ-kheo ấy là người
có trí tuệ lớn, có trí tuệ rộng, có trí tuệ sáng, có trí tuệ sắc bén, có trí tuệ
sâu xa. Vị ty- kheo ấy ít muốn, biết đủ, thích độc cư, không thích đám đông, đầy
nghị lực. Vị tỳ-kheo ấy là bậc khích lệ những bậc đồng phạm hạnh, sẵn sàng chỉ
điểm những lỗi lầm. Vị tỳ-kheo ấy có hạnh nhẫn nhục như đại địa. Vị tỳ-kheo ấy
có tâm bất hoại. Vị tỳ-kheo ấy có tâm khiêm hạ như đồng tử. Này các tỳ-kheo,
hãy nhìn đây xương trắng tro tàn của bậc Đại tuệ, bậc Quảng tuệ, bậc Lợi tuệ, bậc
Minh tuệ ”.
Quý hóa thay, “bậc trí tuệ đệ nhất”!
---o0o---
CHÚ THÍCH
(1) Trong hàng đại bồ-tát, ngài Văn-Thù-Sư-Lỵ là bậc đứng đầu về trí tuệ. Cho
nên ta vẫn nghe nói: Đại Trí Văn-Thù-Sư-Lỵ. Chữ sanskrit Manjusri phiên âm
thành Mạn-Thù-Sư-Lỵ, Mạn-Thù-Thất-Lỵ, Văn-Thù-Sư-Lỵ, dịch nghĩa là Diệu Kiết Tường
hay Diệu Đức.
(2) Tên của Bình Định Vương là Lê Lỵ; khi ngài lên làm vua - vua Lê Thái Tổ
- thì do kiêng tên nên bao nhiêu chữ Lỵ được đổi thành Lợi. Đó là ý kiến của GS
Nguyễn Ngọc Huy, trong một chú thích ghi ở cuốn sách Quốc Triều Hình Luật của ông.
(3) Thời Phật Thích- Ca, tại Ấn Độ, có 16 nước lớn; trong 16 nước ấy, có 6
thành lớn gọi chung là Lục Đại thành. Khi
đức Phật đi giáo hóa, ngài đã qua sáu thành ấy, đó là :
1.
Xá-Vệ, kinh đô của nước Kiều-Tất-La tức Câu-Tất-La, nơi đây có vua Ba-Tư-Nặc
và cảnh vườn Kỳ Viên do ông Cấp Cô Độc
cúng dường.
2.
Vương Xá, kinh đô của nước Ma-Kiệt-Đà hay Ma-Kiệt-Đề, nơi có vua Tần-Bà-Sa
-La và có cảnh Vườn Trúc tức Trúc Lâm.
3.
Ba-La-Nại là nơi Phật thuyết pháp cho bọn ông Kiều-Trần-Như 5 người, trong Vườn Nai tức Lộc Uyển hay Lộc
Dã Viên.
4.
Tỳ-Xá-Ly còn gọi là Tỳ-Da-Ly hay Duy-Da-Ly hay Phệ-Xá-Ly; Vaisālī dịch
nghĩa là Quảng Nghiêm, kinh đô của dòng Licchavi thuộc liên minh Bạt Kỳ, nơi này có vườn trái
cây Am-La thụ viên do bà Am-La cúng dường.
5.
Bà-Chỉ-Đa (không thấy nói chi tiết).
6.
Chiêm-Bà, kinh đô của xứ Anga. Vua nước ấy lấn nước Ma-Kiệt-Đà nên bị vua Tần-Bà-Sa-La
đánh và chiếm cả xứ Anga.
(4) Át-Bệ là một trong năm người được
nghe bài pháp đầu tiên của đức Phật (kinh Chuyển Pháp Luân, nói về Tứ Diệu Đế).
Còn có tên là A-Thị-Thuyết. Năm vị này thường được gọi là năm anh em ông Kiều-Trần-Như
: Kiều-Trần-Như, Bạt-Đề, Thập-Lực-Ca-Diếp,
Ma-Nam-Câu-Lỵ và Át-Bệ.
(5) Tu-Đạt-Đa là người rất giàu và có lòng từ thiện, biệt danh là Cấp Cô Độc
nghĩa là chu cấp cho người cô độc, già cả, nghèo khó. Ông mua vườn cây của thái
tử Kỳ-Đà, xây tịnh xá Kỳ Viên rất lớn. Do đó có tên “Kỳ thụ Cấp Cô Độc viên”
nghĩa là cây của ông Kỳ-Đà, vườn của ông Cấp Cô Độc.
(6) Phú-Lâu-Na, một trong mười đại đệ tử của đức Phật, tôn giả là bậc “thuyết
pháp đệ nhất”.
(7) Thuần-Đà là em ruột của tôn giả Xá-Lỵ-Phất, đắc quả a-la-hán. Không nên
lầm với ông thợ rèn Thuần-Đà là người đã cúng dàng bữa cơm sau cùng của đức Phật.
[Người em út của tôn giả Xá-Lỵ-Phất tên là Ly-Bà-Đa cũng đắc quả a-la-hán].
Sách Thập Đại Đệ Tử của Thích Tinh
Vân do Như Đức dịch, cho chi tiết khác : chỉ có một sa-di tên là Quân Đầu đi
theo tôn giả Xá-Lỵ-Phất về quê mà thôi, chứ không có 500 chúng tăng và tôn giả
Thuần-Đà như một tài liệu khác đã ghi. Cả hai thuyết đều cần được nghiên cứu lại.
(8) Tứ Thiên Vương hay Tứ Đại Thiên Vương là bốn vị cai trị bốn cõi trời ở
lưng chừng núi Tu-Di; vua Đế Thích có tên khác là Kiều-Thi-Ca là vua trời Đao-Lỵ;
Đại Phạm Thiên Vương hay Phạm Vương (một số kinh sách Tàu gọi là Ngọc Hoàng Thượng
Đế ) là chủ cõi Ta-bà. Các vị này thường đến nghe Phật Thích-Ca thuyết pháp và
hỗ trợ Tam Bảo. Người theo đạo bà-la-môn thờ thần Brahma.
(9) Đoạn chữ ngả này trích ở phần cuối bài Xá-Lợi-Phất, trong sách Đường vào nội tâm của Thích Nữ Trí Hải.
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét