Bước
vào cõi Phật – Quyển 2 – Bài 22. Vua A Dục
Cố Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú
-o0o-
22.
VUA A-DỤC
1.
Nói đến Ấn-Độ là nói đến một nước rất lớn, lớn đến nỗi sách vở gọi là một
“tiểu lục địa”. Nước Ấn Độ rộng 3.268.000 km2 (gấp 10 lần Việt Nam).
Dân số là 1.100 triệu (gấp 13 lần Việt Nam). Có rất nhiều tiếng địa phương,
nhưng ngôn ngữ chính thức là tiếng hindi. Hiện nay, tôn giáo chính là Ấn-Độ
giáo.
Lịch
sử Ấn-Độ là một lịch sử lâu dài, nền văn minh lưu vực Ấn Hà hiện hữu từ 25 thế
kỷ trước Tây lịch (tr.TL). Ấn Hà tức là sông Indus.
Trong
khoảng thời gian 560-480 tr.TL, sự kiện nổi bật nhất là giáo chủ Mahāvīra của đạo
Kỳ-Na (Jainisme) và giáo chủ Thích-Ca Mâu-Ni của đạo Phật ra đời truyền đạo. Sở
dĩ người ta nhắc đến hai vị giáo chủ vì hai đạo chủ trương bình đẳng trong một
xã hội phân chia giai cấp rất nặng nề.
Vào
khoảng thời gian 320-176 tr.TL, triều đại Mô-Ri-A (Maurya, ta gọi là Khổng Tước)
được thiết lập ở xứ Ma-Kiệt-Đà (Magadha). Người sáng lập ra vương triều này là
vua Candragupta. Ông chinh phục hết các nước nhỏ yếu xung quanh và là người đầu
tiên thống nhất được nước Ấn-Độ. Ông truyền ngôi cho con là Bindusara, ông này
ngự trị trên một vùng lãnh thổ mênh mông do cha truyền lại và tiếp tục chính
sách của cha. Ông có rất nhiều vợ (16 bà!) và cả trăm người con (101 người!), một
trong các người con đó là A-Dục (khoảng 300-232 trước Tây Lịch). A-Dục
hay A-Du-Ca là do chữ Asoka - còn viết
là Ashoka - phiên âm ra. A-Dục có nghĩa là vô ưu, thoát
khỏi sầu não.
2. Theo Từ Điển Phật học Hán Việt thì: Lúc nhỏ,
A Dục tàn bạo lắm nên vua cha không ưa và muốn chọn người anh là Tu-Tư-Ma để truyền ngôi. Nhân có nước nhỏ Đức-Xoa-Thi-La nổi loạn,
vua sai A-Dục đi bình định mà chỉ cấp cho rất ít khí giới với mục đích cho A-Dục
chết trận. Nào ngờ, A-Dục thành công và cầm quyền nơi xa đó; làm phó vương miền
Điểu-Xà-Diễn-Ma, lo thu thuế. Khi nghe tin vua cha bệnh nặng, A-Dục vội vàng về
kinh đô chuẩn bị lên nối ngôi. Trong việc “nối ngôi” này, có những điều mờ ám,
thí dụ như việc tất cả các anh em của A- Dục đều bị giết, kể cả Tu-Tư-Ma, trừ một
người tên là Tì-Đại-Du-Ca sau tu thành la-hán.
Từ
Điển nói trên ghi thêm một thuyết khác: “Ông đánh úp và giết chết Tu-Tư-Ma, tự
lên ngôi vua. Chỉ trong vòng bốn năm, ông trừ khử người em cùng mẹ là Để-Tu, giết
99 người anh em khác mẹ, rồi lên ngôi vua, đó là khoảng 280 năm sau khi đức Phật
nhập Niết-bàn”. Việc này cần phải tìm tòi thêm vì người ta nói rằng trên một cột
đá, ông có nhắc đến anh em của ông.
Vua
A-Dục sinh năm 304 tr.TL, lên ngôi năm 269 tr.TL lúc 35 tuổi, trị vì được 38
năm và mất năm 232 tr.TL, thọ 73 tuổi. Thật ra, năm lên ngôi cũng như năm đăng
quang của vua A-Dục không được chính xác lắm. Nơi thì ghi là vua lên ngôi năm
270 tr.TL, nơi khác ghi là 265. Sách này ghi rằng vua băng hà năm 230 tr.TL,
sách khác lại ghi là 232 hoặc 238. Lễ đăng quang cử hành 4 năm sau khi vua lên
ngôi.
Phật học Từ Điển của Đoàn Trung Còn ghi: “Chép theo những
sự khảo cứu trên những cột đá do vua dựng lên trong xứ thì vua lên ngôi năm 273
tr.TL. Vua đóng đô tại thành Hoa Thị”.
Vua
A-Dục được xem là ông vua vĩ đại nhất của nước Ấn-Độ. Mới lên ngôi, vua dùng vũ
lực mở mang bờ cõi, vương quốc trải rộng từ Afghanistan đến Bengal, bao gồm luôn
đồng bằng sông Hằng. Tuy nhiên, trong một trận xâm chiến nước Kalinga tại bờ biển
phía Đông vào năm 262 tr.TL, quân sĩ và dân chúng chết quá nhiều, kẻ còn lại
thì cực kỳ lầm than. Kalinga là tiểu bang Orissa của Ấn Độ ngày nay. Một tài liệu
ghi: một trăm ngàn người bị giết, năm chục ngàn người bị bắt làm tù binh và một
số nhiều hơn thế chết thảm. Nhà vua động lòng thương cảm và tỏ ra hối hận vì đã
gây nên binh đao và khổ đau, chết chóc. Khi vua gặp được cháu mình là tu sĩ trẻ
tuổi Ni-Cù-Đà thì ông này đem Phật pháp giáo hóa cho thì vua tỉnh ngộ, có một sự
biến chuyển về tâm linh và vua quy y Tam
Bảo vào năm 261 tr.TL. Điều này thì có người đặt chấm hỏi. Một tài liệu khác
mang tính kỳ bí hơn: Nhà vua thấy một tỳ-khưu thi triển thần thông làm cho nước
sông Hằng chảy ngược nên ngưỡng mộ Phật pháp!
Không
những bản thân thực hành Phật pháp mà nhà vua còn áp dụng Phật pháp trong việc
trị vì đất nước. Ngưng hẳn việc dùng vũ lực chiếm đóng đất đai, nhà vua dùng mọi
phương tiện để đào giếng, làm đường, xây trường học và nhà thương, trồng dược
thảo, phát thuốc v.v... cho dân, nhà vua gọi đó là “chinh phục bằng giáo pháp”.
Lại gửi các quan đi khắp nơi để khuyên bảo dân chúng ăn ở hiền lành, thực hành
Phật pháp.
3.
Về việc hoằng pháp, người ta kể rằng khi được nghe nói rằng đức Phật
thuyết 84 ngàn pháp, nhà vua đã cho xây cất rất nhiều chùa, tháp, con số lên tới
84 ngàn! Những tháp này có tên là stupa,
phiên âm thành phù đồ (dù xây chín đợt
phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người). Nhiều tảng đá và cột đá được dựng
lên khắp nước để đề cao các giá trị Phật giáo. Thí dụ “làm lành, tránh dữ, sống
từ bi, trong sạch”. Lại cho in kinh sách để cho sư sãi đọc tụng và để cho dân
chúng theo đó mà tu tập.
Nhưng
cũng nên nói rằng nội dung các tảng và cột đá đó (gọi chung là các sắc chỉ trên
đá, rock edicts) không phải chỉ nói về
Phật pháp mà còn nói đến sự nghiệp nhà vua cùng những lời khuyên răn về đạo đức,
về lòng hiếu thảo, từ bi, sự tương kính giữa các tôn giáo v.v... Có một vài nhà
khảo cứu nhận xét rằng: không thấy tảng đá hay cột đá nào khắc Tứ Diệu Đế cả!
Và ngay cả chữ Pháp (Dhamma) dùng lúc ấy có hẳn là Phật pháp chăng? Có thể rằng
ông vua khôn ngoan đó tránh va chạm người ngoại đạo trên lãnh thổ mênh mông của
ông! Chưa thể đoan chắc được.
Đầu trụ cột đá Vua A-Dục được làm bằng
một khối đá lớn, khắc bốn đầu sư tử ở bốn mặt,
đặt trên pháp luân, đây cũng là quốc ấn của triều đại của Vua A-Dục
một khối đá lớn, khắc bốn đầu sư tử ở bốn mặt,
đặt trên pháp luân, đây cũng là quốc ấn của triều đại của Vua A-Dục
Các
nhà nghiên cứu thường ghi ra những câu sau này trên một cột đá, cốt nói lên
lòng khoan dung rất đáng ca ngợi của vua A-Dục: “Không được vinh danh riêng tôn
giáo của mình và dè bỉu tôn giáo của người khác, phải vinh danh các tôn giáo
khác vì lý do này hay lý do khác. Làm như vậy là giúp cho tôn giáo của mình
phát triển đồng thời giúp cho các tôn giáo khác. Nếu làm khác thì chỉ là đào hố
chôn tôn giáo của mình và làm hại các tôn giáo khác … Hòa hợp là điều tốt lành:
tất cả chúng ta đều phải lắng nghe và muốn lắng nghe các chủ thuyết mà tha nhân
rao giảng”.
Ở
một cột khác, người ta thấy:“Trước đây, ở các nhà bếp trong cung, mỗi ngày có
hàng trăm ngàn sinh vật bị giết thịt. Nhưng nay, khi viết những dòng chữ này về
Giáo Pháp, chỉ còn ba con vật bị hạ thôi, hai con công và một con nai, và về
sau thì sẽ không hạ con nào nữa”.
Và:
“Bất cứ nơi nào trên vương quốc của ta, các hàng quan lại cứ năm năm thì phải
đi kinh lý một lần để dạy Giáo pháp cho dân và dạy nhiều điều khác nữa. Vâng lời
cha mẹ, bạn bè và bà con, cúng dàng các bậc bà-la-môn và sa-môn, không sát sinh
là những điều tốt. Tiêu xài ít đã là tốt, mà sở hữu tài sản tối thiểu cũng là tốt …”.
Người
ta đã liệt kê được những sắc chỉ trên đá: 16 tảng đá lớn, 4 tảng đá nhỏ, 4 tảng
đá nhỏ nói riêng về Phật giáo và 7 cột đá, vậy là tổng cộng có 31 tảng và cột,
có thể sau này còn tìm được thêm.
4.
Năm 273 tr. TL., trong các chuyến hành hương đến các thánh địa Phật
giáo, vua A-Dục đã đến viếng Lâm-Tì-Ni, để thành kính đảnh lễ nơi đản sanh đức
Thích-Ca Mâu-Ni. Để đánh dấu việc này, nhà vua cho dựng nơi ấy một cột đá trên
có khắc chữ đại ý nói rằng: “Hai mươi năm sau khi đăng quang, Nhà Vua đã đến
hành hương nơi này là nơi đản sanh đức Phật. Làng Lâm-Tì-Ni được miễn thuế má,
chỉ phải đóng một phần tám số lợi tức về đất đai thay vì đóng đày đủ như thường
lệ”.
Khi
quân Hồi xâm chiếm Ấn-Độ vào thế kỷ 13 sau TL thì họ tàn phá các chùa chiền,
thánh tích Phật giáo. Lâm-Tì-Ni bị bỏ hoang phế, rừng cây che lấp hết. Năm
1896, nhà khảo cổ học người Đức là TS Alois A. Fuhrer tới Nê-Pan tìm tòi thì
phát hiện được một cột đá với những chi tiết xác nhận rõ ràng nơi ấy chính thực
là nơi đản sinh đức Phật.
Năm
259 tr. TL., vua A-Dục hành hương đến Bồ-đề Đạo tràng, Trên một cái bệ đắp nổi
thấp (bas-relief ) tại tháp Bharhut ở Madhya Pradesh, người ta thấy hình đắp
ghi lại đền và các tòa nhà khác tại Bồ-đề Đạo tràng mà vua A-Dục đã cho xây dựng.
Năm
249 sau đó, vua A-Dục hành hương đến Sārnāth là nơi đức Phật khởi đầu chuyển
pháp luân, thuyết Tứ Diệu Đế cho nhóm năm anh em ông Kiều-Trần-Như. Nhà vua đã
cho dựng nhiều công trình để kỷ niệm chuyến hành hương này, đặc biệt là cho dựng
cột đá nổi tiếng gọi là Sārnāth Lion Capital (= Đầu cột đá có tượng Sư Tử tại
đô thị Sārnāth), trên đầu cột đó có tạc bốn con sư tử quay lưng vào nhau, bốn
con nhìn ra bốn phương. Bệ của tượng sư tử này là một hình trụ đá, có khắc nổi
hình bánh xe pháp. Hình bánh xe được dùng trên lá quốc kỳ hiện nay của Ấn-Độ.
Còn Sārnāth Lion Capital thì được dùng làm quốc huy hiện nay của Ấn Độ. Du
khách thời nay muốn coi tượng Sư Tử này phải tới Viện Bảo Tàng Sārnāth.
Cũng
vào năm 249 ấy, nhà vua hành hương đến Câu-Thi-Na là nơi đức Phật đại bát-niết-bàn
và cho dựng tại đó nhiều cột đá.
Như
vậy là tất cả tứ động tâm (nơi đản sinh, nơi thành đạo, nơi khởi chuyển pháp
luân và nơi đại bát-niết-bàn của đức Phật) đều được nhà vua tới chiêm ngưỡng và
dựng cột đá đánh dấu kỷ niệm. Phật tử từ xưa đến nay đều nô nức theo vết chân
quý hóa ấy.
5.
Sự nghiệp đáng kể nhất của vua A-Dục là đề xuất và tài trợ tổ chức Hội Kết
Tập thứ ba của Phật giáo tại thành Hoa Thị, mục đích là thanh lọc Giáo Hội, loại
trừ những tu sĩ giả hiệu và những tà thuyết. Tại sao có việc này?
Khi
nối ngôi của ông nội và cha thì vua A-Dục vẫn theo đường lối của các vị ấy là
nâng đỡ Tam Bảo và luôn cả các môn phái của những tôn giáo khác. Sau khi hối hận
về các việc ác đã phạm và được cảm hóa theo Phật pháp thì nhà vua không còn chú
ý nhiều đến các nhóm khác mà chỉ chủ yếu yểm trợ Phật giáo mà thôi và yểm trợ một
cách hào phóng ngoài sự tưởng tượng. Thí dụ như nhà vua ban phát tứ sự cho các
nhà xuất gia một cách hết sức rộng rãi, rộng rãi đến nỗi nhiều kẻ lười biếng lợi
dụng, len lỏi vào hàng ngũ tu sĩ để mong hưởng lợi, đắp y mà chẳng theo một quy
tắc nào, đồng thời do ngu dốt hay do xúi dục mà mang vào Giáo Hội những tà thuyết
như là sự trường tồn của linh hồn chẳng hạn.
Khi
nhận thấy uy tín của Giáo Hội xuống thấp, nhiều vị tăng đứng đắn từ chối dự lễ
bố-tát với các tu sĩ giả hiệu. Nhà vua nghe thấy vậy, bèn cho một vị thượng
quan đi thu xếp thống nhất Tăng-già, nhưng mà lệnh không rõ ràng nên khi vị
quan này thấy các nhà sư đứng đắn nhất định không ngồi chung với các nhà sư giả
hiệu thì ông nổi giận, tuốt kiếm chém đầu luôn hết người này đến người khác. Đến
khi trông thấy sư Tỳ-Đại-Du-Ca thì quan ngạc nhiên, dừng tay lại. Tại sao? Vì Tỳ-Đại-Du-Ca
là em ruột của nhà vua. Vị quan vội về tâu vua, vua bèn vời trưởng lão Mục-Kiền-Liên-Tử
Đế-Tu đến để hỏi ý kiến, bàn bạc kế hoạch. Từ đó phát xuất việc triệu thỉnh một
ngàn vị tăng về tham dự một Hội Kết Tập do trưởng lão Mục-Kiền-Liên-Tử chủ trì
và nhà vua bảo trợ, nhằm mục đích loại bỏ các tăng giả hiệu và mọi tà thuyết.
Đây là Hội Kết Tập lần thứ ba của Phật giáo, tổ chức vào năm 326 tr.TL, tại
Asokārāma, thuộc thành Hoa Thị. Hội Kiết Tập kéo dài 9 tháng, với việc đọc tụng
và duyệt lại Kinh tạng và Luật tạng. Để bảo vệ tính trung thực của Giáo pháp,
đích thân trưởng lão đã soạn thảo một cuốn sách tên là Kathavatthu, đả phá các
tà thuyết, gồm 23 chương, về sau cuốn sách này được thêm vào thành quyển thứ
năm trong số bảy quyển của Vi Diệu Pháp.
Một
trong các hệ quả của hội Kết Tập này là việc vua A-Dục cử các phái đoàn đi truyền
bá Phật pháp khắp nơi trên đế quốc rộng lớn của ngài.
Đặc
biệt nhất là phái đoàn sang nước Sư Tử tức là nước Tích Lan, Sri Lanka ngày
nay, trong đó có hoàng tử Ma-Hê-Đà và công chúa Tăng-Già-Mật (con của nhà vua),
là những người đã gia nhập Tăng-già từ lâu. Nơi đây, một nhánh cây bồ-đề được
mang từ Bồ-đề Đạo tràng sang trồng, cây này nay vẫn còn! Phật giáo được quảng
bá nhanh chóng và rộng rãi, được nhận là quốc giáo. Chùa chiền, bảo tháp được
tân tạo rất nhiều.
Hội
Kết Tập thứ tư được tổ chức tại Tambapanni, Tích Lan, vào năm 29 tr.TL, do quốc
vương Vattagami bảo trợ. Vì ngại rằng lâu ngày, kinh điển sẽ bị quên lãng từng
phần, nên trưởng lão Maharakkhita cùng 500 chư tăng tụng lại toàn bộ Tam Tạng,
nhờ thế mà kinh điển được điển chế đầy đủ và đặc biệt là được ghi lên lá bối bằng
chữ pali của Tích Lan.
Cho
đến nay, bộ kinh điển này còn được lưu trữ nguyên vẹn và tất cả đã được Pali
Text Society dịch sang tiếng Anh trong một thời gian kéo dài cả trăm năm. Phật
giáo Tích Lan, với Tam Tạng đó, được gọi là Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravāda).
6.
Một ông vua từ tàn ác trở thành nhân từ, từ ông ác trở thành ông thiện,
từ một nhà vua đầy quyền uy trở thành một Phật tử thuần thành, sống theo chánh
pháp, làm việc theo chánh pháp, cho con trai, con gái, em xuất gia, cai trị
muôn dân với lòng nhân ái từ bi, chinh phục lòng người bằng đạo pháp, đem ánh
sáng của Phật giáo trải khắp các nước xung quanh, hỗ trợ Hội Kiết Tập Pháp lần
thứ ba để bảo vệ Giáo pháp và chỉnh đốn Tăng già, rõ ràng vua A-Dục là một vị đại
đế xứng đáng với lòng tôn kính của mọi Phật tử và của mọi người. □
Phái đoàn Phật giáo Việt Nam dưới cột đá Vua A Dục
PHỤ LỤC.
Trên
một cột đá, có ghi chỉ dụ sau đây nói về sự rạn nứt trong tăng đoàn, đã được dịch
ra tiếng Anh. Trong cuốn sách Vườn Nai,
Chiếc Nôi Phật Giáo của Ni cô Thích Nữ Giới Hương, Tủ Sách Bảo Anh Lạc,
Chhatra Marg, Delhi-7, India, 2005, chúng ta thấy bản dịch ra tiếng Việt của
cô. Cô có ghi bản dịch của HT Thích Minh Châu, đã in trong cuốn Hành Hương Xứ Phật, khác khá nhiều.
Chúng tôi xin trích in vào đây để rút ra một kinh nghiệm chung: có thể tin các
tài liệu đến đâu?
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét