ĐỀN THÁP PAGAN
Cư sĩ Trần Kiêm Đạt
---o0o---
Trong lịch sử kiến
trúc vùng Đông Nam Á, sau Borobudur và Angkor, thì phải kể đến khu vực những
đền tháp Pagan (Vạn Phật Tự). Qua thời gian, Pagan bị hoang phế lâu đời. Những
gì còn lại là do khai quật và chỉnh tu khoảng 1945-1946. Chính những công
trình kiến trúc và điêu khắc này đã đem lại niềm tự hào của nền
nghệ thuật kiến trúc Á Đông tiêu biểu. Không ở đâu trên đất Á Châu, kể cả
đất Ấn Độ, chỉ tại một khu vực nhỏ thôi mà mật độ các di tích
chùa tháp lại dày đặc như tại Pagan.
Thành
phố cổ Pagan
Thành phố cổ
Pagan chỉ có diện tích khoảng 40km2, quy hoạch
bình đồ vuông, nằm trên bờ sông Iraouaddhi. Theo những truyền
thuyết kể lại thì vua Anaoratha bắt đầu theo Phật Giáo, liền
sai sứ thần sang nước láng giềng Thaton của người Môn vốn theo đạo
Phật để cung thỉnh một số kinh sách về phiên dịch. Nhưng vua
nước Thaton khước từ. Vua Anoratha đem binh sang chinh phạt Vương
quốc Thaton, không những thu hồi được nhiều kinh sách và
tượng Phật Giáo, mà còn bắt nhiều thợ thủ công của Thaton đưa về
Pagan, để tham gia ngày đêm trong việc xây dựng chùa tháp
Pagan. Pagan hồi đó là kinh đô văn hóa lớn.
Tháp
Shwe-dagon
Cùng với việc biên dịch và hiệu đính toàn bộ Tam tạng, vua
Anoratha liền cho xây dựng một tòa lầu trang nghiêm hùng vĩ, cất giữ các bộ Tạm
tạng để cúng dường Phật, đồng thời còn cho xây dựng nhiều chùa, tháp khắp đất
nước Myanmar, trong đó, nổi tiếng nhất là tháp Shwe-dagon. Khi nhà vua qua đời,
ngôi tháp này vẫn chưa xây xong, con ông tiếp tục hoàn tất. Ngôi tháp hình
chiếc chuông vàng, trong tháp cất giữ thánh vật là chiếc xương bả vai trước và
chiếc răng của Đức Phật. Pagan trở thành một đô thị tâm linh, một cõi đi về của
cội nguồn dân tộc Myanmar.
Tượng vua Anoratha
Chính nhờ sự tận lực hộ trì của vua Anoratha, nên Phật giáo
vương triều Pagan đã trở thành trung tâm văn hóa Phật giáo Nam truyền lúc bấy giờ. Vua Sri
Lanka có lần sai xứ tới Myanmar để thỉnh cầu vua Anoratha ban cho Tam tạng kinh
và cử tăng đoàn sang Sri Lanka truyền thừa giới pháp. Vì những cống hiến to lớn
cho Phật giáo của Anoratha, nên nhà vua được tôn là “vua Asoka” của Myanmar.
Sau khi Anoratha qua đời, người kế nghiệp bất tài, nên đã
xảy ra phản loạn. May thay, một người con khác lên nối ngôi, tên là Tilinman đã
củng cố lại vương triều. Đây là một vị vua anh minh và cũng là một Phật tử
thuần thành, ông tiếp tục mở mang lãnh thổ, phát triển đất nước, và đưa Pagan
bước vào thời kỳ phát triển rực rỡ nhất. Tilinman đã xây cho mình một đài kỷ
niệm xứng danh, đó là chùa Ananda. Ananda nổi lên lộng lẫy giữa đô thị cổ
Pagan, đứng một mình ngạo nghễ giữa trời xanh và thách đố với thời gian.
Chùa Ananda
Năm 1300, vó ngựa xâm lăng của Mông Cổ buộc những cư dân ở
đây phải rời bỏ thành Pagan cổ kính thiêng liêng, mặc cho những cơn gió cuốn
theo lớp bụi vàng của vùng cao nguyên cháy nắng phủ lên những đền đài trầm mặc,
cô tịch. Vương triều Pagan tồn tại gần 3 thế kỷ và đều lấy Phật giáo Theravada
làm quốc giáo. Điều này không chỉ có ý nghĩa thuần túy về mặt tôn giáo mà còn
giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành quốc gia dân tộc, và văn hóa Phật
giáo đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được trong nền văn hóa Myanmar.
Lúc này có trên 5,000 chùa tháp, nhưng qua thời gian và chinh
chiến hiện nay chỉ còn khoảng 2,300 ngôi chùa tháp. Hầu hết những chùa
tháp Pagan được kiến tạo vào khoảng thế kỷ XI- XII, dưới triều đại Pagan.
Những nhà khảo cổ UNESCO cho rằng: "Pagan là cả một rừng kiến trúc
Phật Giáo Tiểu Thừa". Cũng tại đây, đã chứng minh rõ nét
nhất về tinh hoa và tài năng của dân tộc Miến Điện được thể hiện
qua các đền tháp, biểu hiện phong cách kiến trúc truyền thống
Miến Điện trong giai đoạn hình thành và phát triển. Phật Giáo phát triển tại
Miến Điện bởi những sắc dân người Môn và người Piuk, vốn từ Ấn Độ sang.
Cho đến năm 1001, triều đình Miến Điện đã thừa nhận vị Tăng
Thống của Phật Giáo là Đại Lão Hoà Thượng tại Pagan.
Pagan một thời là kinh đô của triều đình vua Anoratha.
Pagan được kiến tạo từ đó. Pagan có tên cổ là Arimadda Napura có nghĩa là
"Thành phố đạp chân lên kẻ thù", ám chỉ sự chiến thắng
những bộ tộc người Môn tại Thatôn. Đi từ cổng đền vào, có hai
ngôi đền thờ, khắc chạm hình những Maha Girinat. Đây là vết
tích của đạo Nak có từ trước của người dân Miến. Đi vào trung tâm của
khu vực nầy, tất cả những đền tháp đều có tên (phần đuôi) là "Cetiya" hay là "Gu" (tháp hay chùa).
Một loại tháp Cetiya
Theo danh từ Phật học, "Cetiya" biểu trưng cho
Phật và Pháp. Cetiya gần với khái niệm "Stupa" (Tháp) của
Ấn Độ. Tất cả có đến 2,289 Cetiya. Những ngôi tháp ở Pagan được
phân chia ra làm 4 loại khác nhau, tùy tầm cỡ và tùy phong cách:
Loại thứ nhất là loại stupa (tháp) hình bầu, hơi giống như
kiểu tháp Chorten của Tây Tạng, Boutan. Ngôi tháp có niên đại sớm
nhất của loại nầy xuất hiện vào thế kỷ VIII có tên là Pupaya, do những thổ dân người
Piuk xây lên. Loại thứ nhì là một loại Stupa hình quả chuông, ở
giữa có những đường gờ nổi lên, trang trí bằng những hoa văn. Chóp của
loại tháp nầy là đỉnh cao nhất của những đường gờ bao quanh. Không
xác định được niên đại của loại tháp nầy, nhưng nhiều tư liệu cho biết là triều
đình vua Aniruddha rất tán thưởng phong cách kiến
trúc nầy. Những Stupa loại này có nền hình bát giác, có 1 hay nhiều
tầng,với những hồi lang bao quanh. Thông thường thì Stupa và nền được xây dựng
lên trên một hình Kim tự tháp khổng lồ. Loại thứ ba cấu tạo theo kiểu
hình chuông và cũng có những đường gờ ở giữa. Nền hình tròn
hay hình bát giác. Trên đỉnh vòm chuông được kiến trúc theo hình
bát giác. Tất cả được trang trí hài hòa và cân đối. Loại thứ
tư cũng cấu trúc hình chuông, có nền tròn, nhiều bậc, không
có hành lang rộng, không có những đường gờ. Hầu hết bên ngoài những chùa
tháp Myanmar đều có tạc Thần Hộ Vệ. Những vị Thần chính nầy phải kể: Thần
Virupaksa, Thần Virudhaka, Thần Dhtarastra và Thần Kubera. Những tượng này rập
theo khuôn mẫu ở chùa tháp Bharhut (Ấn). Ảnh hưởng Ấn Giáo còn đọng lại với
tượng Vichnou và tượng Shiva.
Các tượng thần trong
tháp
Nhìn chung lại,
các loại Ceytiya kể trên không giống như kiểu kiến trúc Ấn Độ cùng
thể loại này. Chức năng của những tháp này cũng hoàn toàn
khác, vì toàn bộ dùng cho những hoạt động tôn giáo. Họ muốn
nêu lên biểu trưng của Niết Bàn, mục đích cao nhất trên con đường
tu hành. Nền Kim tự tháp gợi lên hình ảnh của vũ trụ, không gian
hiện đang sống.
Những đền tháp ở
đây đều dựa theo mô hình kiến trúc Tích Lan và Ấn Độ. Người Miến
Điện thường xây đền tháp trên những đỉnh đồi, vì họ quan niệm càng
lên cao chừng nào thì tâm hồn càng thanh thoát và xa trần tục bấy
nhiêu. Tại Pagan còn có một loại hình kiến trúc Phật Giáo khác nữa:
loại đền Gru. Những loại đền này được thiết kế trong những hang
động và những giả sơn (Gru có nghĩa là hang). Phần bên trong của những đền hang
nầy là một hệ thống hang động và các phòng vòm. Kiểu vòm nầy rất
phổ biến trong những kiến trúc Phật Giáo tại Miến. Đây không
phải khuôn rập theo kiến trúc Ấn Độ, mà thực chất là của
người Piuk thường xây. Đa số những ngôi đền tại Pagan được xây dựng
trên những khu vực đất bằng phẳng và có nguồn gốc từ những
Stupa. Quá trình hoàn thành các công trình nầy là do người Ấn,
người Môn và người Piuk hợp tác.
Đến Myanmar là bước vào một thế giới khác với hương vị, cảnh quan, và
cảm giác hết sức quyến rũ, với một bầu không khí thật sự khác thường. Rangoon,
thủ đô của Myanmar, là một nơi kết hợp hài hỏa giữa truyền thống và hiện đại,
giữa một bên là một nền văn hóa Miến Điện thực thụ hòa cùng với những di sản thời
thuộc địa sót lại, vẫn còn tồn tại hàng thập kỷ sau khi Anh quốc rút lui.
Nhịp đập của thành phố hòa nhịp cùng những con đường rộn rã của nó, tạo nên một
nét rất riêng của đất nước: người Myanmar.
Chùa Kyaikhtiyo
Chùa Kyaikhtiyo là một trong những ngôi cổ nhất và nổi tiếng nhất trong
tất cả các ngôi chùa ở Myanmar.
Chùa Kyaikhtiyo tọa lạc gần thị trấn Kyaikhto, quận Thaton và nhiều người tin
rằng nó được xây dựng trong thời gian Đức Phật còn sống, trên 2.500 năm trước.
Theo truyền thống của đạo Phật, tên ngôi chùa này được bắt nguồn từ
"Kyaik" có nghĩa là "chùa" và "yo" có nghĩa là
"ngự trên đầu của nhà ẩn dật"; còn trong tiếng Pali thì
"ithi" nghĩa là "một nhà ẩn dật" và vì thế Kyaikhtiyo hàm ý
"ngôi chùa mang đầu của nhà ẩn dật". Bởi vì truyền thuyết kể rằng sau
khi một người tu hành xuống tóc vì Đức Phật thì không còn quyến luyến gì trần
đời và toàn tâm đi tìm miền cực lạc. Nơi đây có một tảng đá thiêng, được bao
bọc bởi những lá bằng vàng dát mỏng, nằm cheo leo trên bờ một vách đá. Truyền
thuyết kể rằng, sở dĩ tảng đá giữ vững được vị trí của nó là nhờ có một sợi tóc
của Phật Tổ được đặt ở một vị trí chính xác trong một cái tháp thờ cao đến 7,3m
nằm trên khối đá này.
Ngôi chùa được xây dựng trên một tảng đá tròn, hình quả trứng rất
to lớn trên độ cao 1.100m so với mặt biển. Đây là một công trình kiến trúc tôn
giáo nổi tiếng thế giới, một di sản văn hoá khổng lồ của nhân loại. Trước khi
tới Yangon, những người nước ngoài đều đã có khái niệm sơ bộ về kỳ quan này qua
sách báo, phim ảnh hoặc lời kể. Điều đáng nói là khoảng cách giữa khái niệm và
thực tế là rất lớn, điều này tạo ra niềm hứng thú và cảm phục cho mọi người như
khi chính ta đang đứng trước Angkor vĩ đại.
Quần thể kiến trúc to lớn này tọa lạc trên đỉnh một khu đồi lớn với nhiều hệ
thống bậc thang trải dài xuống tận chân đồi và một hệ thống thang máy hiện
đại. Từ dưới chân núi, bạn chỉ nhìn thấy duy nhất chỏm đá nhô ra phía
ngoài; nhưng khi lên đến đỉnh, cảnh quan diễn ra trước mắt là một quần thể kiến
trúc thống nhất. Ngôi chùa Kyaikhtiyo cao gần đến 30mét với vô vàn tượng Phật
được đặt khắp ngóc ngách, đặc biệt có một số tượng Phật được trang điểm bằng
hàng nghìn viên đá quý, hàng trăm viên kim cương với hàng trăm chiếc chuông
vàng.
Toàn bộ khuôn viên chùa vàng có kích thước hình chữ nhật, cao hơn mặt
bằng thành phố 20mét. Từ 4 hướng chính có 4 dãy cầu thang có mái ngói che phủ.
Dãy cầu thang dài nhất có 175 bậc, dãy ngắn nhất 104 bậc. Hai bên các dãy bậc
thềm là hàng loạt các nhà nghỉ cho khách hành hương. Để leo lên đến được đỉnh
núi dài 12km tính từ vùng Kimmunsakhan, du khách phải leo bộ qua 20 trạm nghỉ
khác nhau với các quán cóc nhỏ phục vụ đầy đủ các loại nước giải khát và trái
cây. Tuy nhiên, điểm hấp dẫn mọi người nhất là trong suốt quãng đường dài
như thế, không một tia nắng nào có thể ảnh hưởng đến vì các tán lá cây rộng lớn
có thể che mát mọi người.
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét