Lịch sử Đức Phật
Thích Ca (4/6)
-o0o-
19. Đức Phật và Công chúa Yasodhara (Da Du Đà La)
Công chúa Yasodhara (Da Du Đà La) vốn là con gái vua
Suppahuddha (Thiện Giác), đứng đầu dòng họ Koliya. Sau khi Thái tử rời bỏ hoàng
cung, xuất gia cầu đạo, công chúa cũng bỏ hết đồ trang sức, mặc áo vàng của
người nữ tu sĩ, và tận tình nuôi người con trai là La Hầu La đến tuổi khôn lớn.
Ngày thứ hai Đức Phật đến thành Kapilavastu, Đức Phật
cùng với đông đảo đệ tử đến dùng bữa ăn trưa tại hoàng cung, theo lời mời của
vua cha. Sau bữa tiệc, Đức Phật cùng với vua cha và hai người đệ tử thân cận,
Sariputta và Moggalana đến phòng công chúa. Sau khi Đức Phật vào phòng và ngồi vào
chỗ xếp sẵn, công chúa đảnh lễ Phật với thái độ vô cùng cung kính. Đức Phật
giảng truyện bổn sanh Candakinnara và nói: "Thưa phụ vương, không phải chỉ
trong kiếp này, mà trong một kiếp sống trước, công chúa cũng đã từng bảo vệ tôi
và thủy chung với tôi". Sau khi nhắc lại chuyện kiếp trước, Đức Phật an ủi
công chúa và từ giã hoàng cung.
Sau khi vua Suddhodana qua đời, bà dì là Pajapati xuất
gia làm Tỳ kheo ni. Công chúa cũng xuất gia và không bao lâu chứng quả A la
hán. Trong số các Tỳ kheo ni, công chúa là người giỏi phép thần thông nhất. Năm
78 tuổi, công chúa nhập Niết bàn.
20. Đức Phật và Rahula (La Hầu La)
Rahula (Hán dịch âm: La Hầu La) là người con trai độc
nhất của Đức Phật, khi Đức Phật còn là thái tử. Lần đầu tiên Đức Phật trở về
thăm cố đô và gia đình, sau ngày thành đạo, Rahula lên 7 tuổi, được bà dì là
Maha Pajapati Gotami trực tiếp nuôi dưỡng, săn sóc. Mặc dù còn nhỏ tuổi, nhưng
Rahula vẫn được chấp nhận vào Tăng đoàn, và được Đức Phật giao cho Ngài
Sariputta trực tiếp dạy dỗ.
Một trong những bài kinh nổi tiếng Đức Phật đích thân
giảng cho Rahula sau khi Rahula xuất gia, là kinh Ambalatthika Rahulovada
sutta, trong đó Đức Phật nhấn mạnh tầm quan trọng của tánh trung thực, của sự
phản tỉnh để trừ diệt mọi ý niệm, lời nói và hành vi bất thiện, bất chánh.
Nhờ luỵện tập phép tu thiền niệm hơi thở, theo lời chỉ
dẫn của Đức Phật, và sau khi nghe giảng kinh Cula Rahulovada, Ngài Rahula chứng
quả A la hán. Ngài qua đời trước Đức Phật và Ngài Sariputta.
Trong "Trưởng Lão Tăng Kệ", có hai bài kệ như
sau, của Rahula, sau khi Ngài chứng quả A la hán:
"Nhờ ta được đầy đủ
Hai đức tánh tốt đẹp
Được bạn có trí gọi:
'Rahula may mắn'
Ta lại được pháp nhãn,
Các lậu hoặc đoạn tận,
Không còn có tái sanh
Ba minh ta đạt được
Thấy được giới 'bất tử'"
21. Đức Phật và bà dì mẫu Pajapati Gotami (Ma Ha Ba Xà Ba
Đề)
Bà dì Gotami là em hoàng hậu Maya, và là vợ thứ của vua
Suddhodana. Sau khi hoàng hậu Maya qua đời, bà lãnh trách nhiệm săn sóc, nuôi
nấng Thái tử Siđacta.
Lần đầu tiên Đức Phật về thăm thành Kapilavastu, sau ngày
Ngài thành đạo, bà dì có trực tiếp xin Đức Phật cho xuất gia làm Tỳ kheo ni,
nhưng Phật không chấp nhận, mà cũng không nói rõ lý do. Bà Gotami ba lần xin,
Đức Phật đều từ chối. Sau khi rời Kapilavastu, Đức Phật cùng với số đệ tử đông
đảo đến thành phố Vesali, ngụ tại tịnh xá Kutagara.
Bà Gotami cùng với nhiều bà khác thuộc giòng họ Sakya,
đầu cạo tóc, thân đắp y vàng, kéo nhau đến Vesali và đứng chờ ngoài cửa tịnh
xá, nơi Đức Phật an nghỉ. Từ Kapilavastu đến Vesali, con đường dài 150 dặm. Bà
Gotami và các bà giòng họ Sakya, chân sưng phồng, quần áo đầy bụi, vẻ mặt buồn
bã nhưng kiên quyết, yêu cầu Ngài Ananda cho được gặp Đức Phật. Ngài Ananda
động lòng thương xót, vào xin Đức Phật cho phép các bà được xuất gia làm Tỳ
kheo ni. Ngài Ananda hai ba lần nài xin, Đức Phật đều không chấp nhận. Ngài bèn
thưa với Phật rằng:
"Nếu phụ nữ được xuất gia và tu học theo pháp và
luật của đức Thế Tôn thì họ có thể chứng quả Thánh thứ nhất, quả Thánh thứ hai,
quả Thánh thứ ba và cuối cùng có chứng được quả A la hán không?"
Đức Phật trả lời là họ có khả năng chứng các quả Thánh
nói trên. Ngài Ananda bạch tiếp: "Nếu họ có thể chứng được các quả Thánh
thì cớ sao bà dì Gotami lại không được xuất gia theo Pháp và Luật của Đức Thế
Tôn, vì bà dì đã trực tiếp nuôi nấng săn sóc Thế Tôn, từ ngày Đức Thế Tôn còn
tấm bé".
Đức Phật nói: "Nếu bà Gotami chấp nhận thực hành tám
điều quy định nghiêm khắc sau đây, thì Ta cho phép Bà và các phụ nữ xuất gia,
tu học dưới pháp và luật của Ta". Rồi Đức Phật nói ra tám điều qui định
nghiêm khắc mọi quan hệ giữa Tỳ kheo và Tỳ kheo ni (xem luật Tỳ kheo ni). Ông
Ananda đem 8 điều luật Phật nói thưa lại với bà dì Gotami và các bà khác. Các
bà đều hoan hỷ nhận lời.
Cho phép bà dì Gotami xuất gia và thành lập đoàn Tỳ kheo
ni, Đức Phật đã thấy trước hậu quả của quyết định của mình. Ngài nói với đại
đức Ananda rằng: "Này Ananda, nếu phụ nữ không được phép xuất gia và sống
trong Pháp và Luật của Ta, thì cuộc sống Thánh hạnh của các đệ tử của Ta có thể
giữ vững dài lâu, Chánh pháp cao cả của Ta có thể duy trì một ngàn năm, nhưng
vì phụ nữ được phép xuất gia, cuộc sống Thánh của các đệ tử Ta sẽ không duy trì
dài lâu, và từ nay Chánh pháp cao cả của Ta chỉ còn tồn tại 500 năm nữa mà
thôi".
"Cũng như, này Ananda, có những ngôi nhà có nhiều
phụ nữ và ít đàn ông, những ngôi nhà đó rất dễ bị mất trộm. Nếu để phụ nữ xuất
gia, sống trong Pháp và Luật của Như Lai, cuộc sống Thánh của các đệ tử sẽ khó
mà duy trì dài lâu. Cũng như một người đắp một con đê để ngăn một bể nước lớn,
không để cho nước tràn qua. Ta cũng vậy, Ta chế định ra 8 giới điều nghiêm khắc
trên là để ngăn ngừa không để cho Tỳ kheo ni vi phạm".
Những lời Phật dạy, tuy có thể không được thuận tai đối
với phụ nữ, nhưng cũng phải nhận rằng, Đức Phật đã sớm thấy rõ, đối với phụ nữ
nói chung, bản tánh mềm yếu và dễ cảm xúc, cuộc sống xuất gia không phải dễ
dàng. Quan hệ giữa nam và nữ tu sĩ trong Tăng đoàn cũng dễ xãy ra nhiều chuyện
rắc rối.
Mặc dù vậy, Đức Phật là vị giáo chủ đầu tiên trong lịch
sử nhân loại, cho thành lập một Ni đoàn với đầy đủ giới luật và uy nghi. Bà la
môn giáo, và các tôn giáo khác đương thời ở Ấn Độ đều không có đoàn thể phụ nữ
tu hành như vậy. Hơn nữa, trong thời Đức Phật còn tại thế và sau nầy, nhiều Tỳ
kheo ni đã chứng quả A la hán và trở thành nổi danh trong hành tu sĩ, như chúng
ta có thể đọc thấy trong cuốn "Trưởng lão ni kệ" thuộc Tiểu Bộ Kinh.
22. Đức Phật và Tôn giả Ananda
Ananda là anh em cô cậu với Đức Phật và là con của
Amitodana, em vua Suddhodana, thân phụ của Đức Phật. Vì ngày ông sinh ra đem
lại niềm hoan hỷ cho mọi người trong gia tộc, cho nên Tôn giả được đặt tên
Ananda (Khánh Hỷ).
Tôn giả Ananda xuất gia theo Phật, cùng với các thanh
niên khác dòng họ Sakya, là Anuruddha, Bhadya, Bhaga, Kimbila, và Devadatta.
Năm Đức Phật 55 tuổi, tôn giả Ananda được cử làm thị giả của Đức Phật. Trong
suốt 25 năm trời, từ ngày ấy cho đến lúc Đức Phật nhập Niết bàn, Tôn giả Ananda
luôn luôn ở bên cạnh Đức Phật, hầu hạ săn sóc Đức Phật, trong mọi nhu cầu sinh
hoạt hàng ngày. Ông Ananda có một trí nhớ lạ lùng, ông ghi nhớ không bỏ sót tất
cả các bài thuyết pháp của Đức Phật cũng như của một số đệ tử lớn của Đức Phật.
Khi một Bà La Môn hỏi Tôn giả nhớ được bao nhiêu bài
kinh, Tôn giả trả lời là có 82.000 bài của Đức Phật thuyết và 2.000 bài của các
Tỳ kheo, đệ tử của Đức Phật thuyết. Đúng là có tổng số 84.000 bài kinh tất cả.
Đức Phật tán thán năm đức hạnh của Tôn giả Ananda là: học
uyên bác, trí nhớ tốt, kiên định, săn sóc chu đáo, ứng xử tốt.
Mãi sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn. Tôn giả Ananda mới
chứng quả A la hán. Đấy là do khi Đức Phật còn tại thế, tôn giả bận làm công
việc thị giả, cũng như bận ghi nhớ các bài giảng của Đức Phật, như một đệ tử
bác học đa văn. Tôn giả Ananda nhập Niết bàn, năm ông 120 tuổi.
23. Đức Phật và Devadatta (Đề Bà Đạt Đa)
Devadatta là con vua Suppabuddha và hoàng hậu Pamita,
Pamita là một bà cô của Đức Phật, Devadatta xuất gia theo Phật, cùng một lượt
với ông Ananda và các thanh niên quý tộc khác, thuộc giòng họ Sakya. Devadatta
không chứng được quả nào, nhưng lại giỏi một số pháp thần thông, và được vua
Ajattasattu (A Xa Thế) xứ Magadha ủng hộ. Mặc dù lối sống hư hỏng, và tà kiến,
tà hạnh, Devadatta vẫn được một số khá đông người tán thành và phục tùng. Khi
Đức Phật về già, Devadatta yêu cầu Phật trao cho mình quyền lãnh đạo Tăng già,
nhưng Đức Phật kiên quyết không chấp nhận.
Devadatta hết sức tức giận, và cùng với vua Ajattasattu
âm mưu hại Phật. Nhưng các xạ thủ được Ajattasattu thuê giết Phật, đều bị Đức
Phật thuyết giáo và trở thành đệ tử của Phật. Devadatta thấy tự mình phải hạ
thủ sát hại Phật mới được. Một lần Đức Phật đang đi dọc bờ núi Gijjhakuta (Linh
Thứu), thì Devadatta từ trên đỉnh núi đẩy xuống một tảng đá lớn. May mà tảng đá
nầy lăn đụng phải một tảng đá khác và bị vỡ. Đức Phật chỉ xây xát và chảy máu ở
chân.
Một lần khác, Devadatta cho một con voi điên uống rượu,
rồi xua voi húc Phật. Con voi chạy đến gần Phật thì bỗng nhiên đứng lại, bị
thuần phục và được Phật xoa đầu. Sau lần âm mưu thất bại này, vua Ajatasattu sợ
quá, không dám tiếp tục che chở cho Devadatta nữa.
Devadatta bèn nuôi một âm mưu khác, xảo quyệt hơn: với
một số Tỳ kheo xấu như Kokàlika, Devadatta muốn phá hoà hợp tăng, chia rẽ nội
bộ Tăng già, Devaddata kiến nghị Đức Phật ban hành 5 điều luật mới như sau:
Tăng sĩ phải sống suốt đời ở trong rừng.
Chỉ được khất thực để ăn.
Chỉ được mặc áo làm bằng giẻ rách lượm ở nghĩa địa.
Chỉ được sống dưới gốc cây.
Suốt đời không được ăn cá thịt.
Đức Phật chỉ trả lời là các đệ tử có thể tùy ý sống theo
hay không theo 5 giới điều ấy, nhưng Ngài không ép buộc họ. Devadatta lợi dụng
sự từ chối của Đức Phật, lôi kéo được một số tăng sĩ trẻ, thiếu học thức và
không có căn bản vững vàng, đi theo mình đến Gayasisa. Nhưng hai đệ tử lớn của
Phật là Sariputta và Moggalana, theo chỉ thị của Đức Phật cũng đến Gayasisa,
thuyết pháp cho họ nghe, và dẫn họ về trở lại với chánh pháp.
Từ đó, tai nạn liên tiếp đến với Devadatta. Mắc bệnh nan
y, trước khi chết, Devadatta ăn năn hối lỗi và tỏ ý muốn được gặp Đức Phật.
Nhưng vì nghiệp ác quá nặng cho nên Devadatta chết mà không gặp Phật, và phải
đọa địa ngục, chịu khổ trong nhiều kiếp.
Về việc Devadatta, Đức Phật răn các Tỳ kheo rằng, vì
Devadatta bị chinh phục bởi các ác pháp, cho nên phải đọa địa ngục, tức là bị
chinh phục bởi lợi dưỡng, danh vọng, cung kính, dục vọng xấu, tà kiến. (Xem
Tăng Chi III, 20)
24. Đức Phật và Trưởng giả Cấp Cô Độc (Anàthapindika)
Nhà triệu phú, trưởng giả Anathapindika là vị thí chủ lớn
nhất ủng hộ Đức Phật và tăng chúng, thời Đức Phật còn tại thế. Ông vốn tên là
Sudatta, nhưng vì ông hay bố thí cho kẻ nghèo và người mồ côi, mồ cút cho nên
người ta tôn gọi ông là Trưởng giả Cấp Cô Độc (Anathapindika). Ông sinh ra ở
Savatthi.
Một lần đến thành Rajagaha (Vương Xá) có công việc, ông
được biết là Đức Phật đang ngụ ở rừng Sitavana, ngoài thành Rajagaha. Ông vui
mừng khôn xiết và sáng sớm hôm sau, trải qua một đêm dài mất ngủ vì quá sung
sướng bồn chồn, ông lên đường đi đến rừng Sitavana. Tại đây, Đức Phật đang đi
kinh hành ngoài trời và biết trước ông đến, gọi ông bằng tên riêng Sudatta và
thân mật bảo ông lại gần Ngài.
Ông vấn an Phật, hỏi thăm Đức Phật có an lạc không, Đức
Phật trả lời:
"Tất nhiên, bao giờ cũng sống an lạc
Bậc A la hán trong lòng mọi ngọn lửa đã dập tắt.
Không còn đeo đuổi theo dục lạc vật chất nữa.
Cõi lòng mát lạnh, mọi sanh y đoạn tận.
Mọi trở ngại đều loại trừ, đã khéo chế ngự,
Mọi đau khổ trong tâm
Bậc A la hán sống an lạc, hạnh phúc
Vì trong lòng được an tịnh". (Tương Ưng I, 273)
a)
Tinh xá Jatavana
Nghe lời Phật giảng, ông Anathapindika chứng được Sơ quả
(Sotapanna), và ông thỉnh cầu Đức Phật sống qua mùa mưa ở Savatthi. Đức Phật
nhận lời. Ông Anathapindika, trở về Savatthi, mua một khu vườn của Thái tử Jeta
(Kỳ Đà), và xây ở đây tu viện Jetavana nổi tiếng.
Sách kể rằng, ông mua khu vườn bằng số tiền đồng vàng lát
đầy diện tích vườn, theo sự đòi hỏi của Thái tử Jeta. Nhưng Thái tử không chịu
bán cây ở trong vườn, và tự mình đem tất cả những cây đó cúng dường Đức Phật.
Từ đó, công viên có tên gọi trong các kinh Phật (Hán dịch) là "Cấp cô độc
viên Kỳ đà thụ". Đức Phật đã giảng nhiều kinh, và trải qua 19 mùa mưa ở
Tịnh Xá nầy.
Các bài nói chuyện của Đức Phật với ông Anathapindika đều
có ý nghĩa lớn đối với người Phật tử tại gia. Trong một bài thuyết pháp về hạnh
bố thí, Đức Phật nói là "sự cúng dường cho Phật và chư Tăng là công đức
rất lớn, nhưng có công đức hơn nữa là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, có
công đức hơn 3 quy y là tự mình giữ 5 giới, có công đức hơn giữ 5 giới là quán
về lòng từ trong giây phút; nhưng có công đức hơn cả là phát triển tầm nhìn trí
tuệ thấy được sự vật như thật và hiểu được tánh vô thường của sự vật"
(Tăng Chi IV, 264 - 265) Qua đoạn kinh trên, có thể thấy điều Đức Phật coi
trọng hơn cả đối với người xuất gia hay tại gia là phát triển trí tuệ, để nhìn
thấy sự vật như thật, đúng bản chất của chúng là vô thường, vô ngã. Tuy bố thí,
cúng dường cũng là điều quan trọng, đối với người tại gia, nhưng tự mình tu
tập, thực hành nếp sống đạo đức theo 5 giới, nuôi dưỡng lòng từ lại càng quan
trọng hơn, nhưng quan trọng hơn cả là phát triển trí tuệ, để nhìn được sự vật
như thật, nhờ đó mà không còn bị tham đắm, nội tâm được giải thoát, tự tại, trí
tuệ được trong sáng.
b) Bốn niềm vui của
Phật tử tại gia
Đức Phật nói tới bốn niềm vui chính đáng của người Phật
tử tại gia, niềm vui có của cải, niềm vui được giàu có, niềm vui không có nợ
nần, và niềm vui không có gì bị chê trách.
"Thế nào là niềm vui có của cải? Ở đây, gia chủ có
của cải nhờ phấn đấu tích cực, góp gom được bằng sức của bàn tay, bằng mồ hôi,
đúng pháp, và tích lũy được một cách đúng pháp, và có ý nghĩ: 'Của cải này là
của tôi, có được nhờ phấn đấu tích cực tích lũy đúng pháp', cho nên niềm vui và
thỏa mãn đến với ông ta. Đó là niềm vui có của cải".
"Thế nào là niềm vui được giàu có? Ở đây, vị gia chủ
được giàu có nhờ phấn đấu tích cực, vui vẻ nhờ giàu có và làm nhiều việc lành.
Vì có ý nghĩ 'Nhờ giàu có mà có thể hưởng thụ sự giàu có và làm các việc lành',
cho nên niềm vui và sự thỏa mãn đến với ông ta. Đó là niềm vui được giàu
có".
"Thế nào là niềm vui không có nợ nần? Ở đây, vị gia
chủ không có nợ nần, lớn hay nhỏ đối với bất cứ một ai. Vì có ý nghĩ 'Tôi không
có nợ nần, dù lớn hay nhỏ đối với bất cứ một ai', cho nên niềm vui và thỏa mãn
đến với ông ta. Đó là niềm vui không có nợ nần".
"Thế nào là niềm vui không bị chê trách? Ở đây, Vị
Thánh đệ tử có niềm vui vì các hành động của thân, miệng và ý đều không có gì
là đáng chê trách. Với ý nghĩ 'Tôi không có gì đáng chê trách ở thân, miệng và
ý', niềm vui và thỏa mãn đến với ông ta". (Tăng Chi III, 77 - 78)
Tiếp đó, Đức Phật nói trong ba niềm vui trên đây của
người tại gia, niềm vui không có gì đáng bị chê trách nơi hành động, lời nói và
ý nghĩ là ưu việt hơn cả.
c) Bảy loại người vợ
Một lần, Đức Phật đến thăm nhà ông Anathapindika, nghe có
tiếng ồn ào thất thường trong nhà, bèn hỏi nguyên nhân, ông Anathapindika thưa:
"Bạch Thế Tôn, đó là Suyata, con dâu tôi đang ở với
chúng tôi. Nó giàu có và đến đây từ một gia đình giàu có, nó không săn sóc gì
tới mẹ chồng, bố chồng và cả chồng nó nữa. Nó cũng không kính trọng, tôn quý và
đảnh lễ Đức Thế Tôn". Đức Phật cho gọi Suyata lại và giảng cho nghe về bảy
loại người vợ:
1. Người vợ có tâm địa ác, có ý xấu, không có lòng
thương, bỏ rơi chồng mình, yêu những người đàn ông khác, một dâm nữ, chỉ muốn
làm phiền lòng người. Đó là loại vợ sát nhân.
2. Người vợ hay hoang phí của cải tài vật, dù là ít do
chồng làm ăn kiếm được, nhờ cày ruộng, buôn bán hay lao động khéo tay, đó là
loại vợ ăn trộm.
3. Người vợ lười biếng, không muốn làm gì hết, lại tham
ăn, ác độc, thô bạo, thích nói lời ác, lấn át người chồng siêng năn cần mẫn. Đó
là loại vợ kiêu xa.
4. Người vợ trìu mến, thân ái bảo vệ chồng như mẹ bảo vệ
con, giữ gìn tài sản của chồng, đó là loại vợ như mẹ.
5. Người vợ kính trọng chồng, như em gái đối với anh cả,
khiêm tốn, sống chiều đúng theo ý chồng. Đó là loại vợ như em út.
6. Người vợ sung sướng khi thấy chồng, như gặp người bạn
cũ sau bao năm xa cách, thuộc giòng quý tộc, có đạo đức, sống thanh tịnh. Đó là
loại vợ như bạn bè.
7. Người vợ dù là bị đối đãi không tốt, nhưng không giận
hờn, vẫn bình tĩnh, chịu đựng mọi hành vi của chồng với lòng từ mẫn, tâm không
biết giận, sống chiều đúng theo ý chồng. Đó là loại vợ như người phục vụ.
Đức Phật sau khi mô tả bảy loại người vợ nói trên, nói
rằng: loại vợ sát nhân, loại vợ ăn trộm, loại vợ kiêu xa đều là không tốt, còn
loại vợ như mẹ, như em út, như bạn bè, như người phục vụ là những người vợ tốt,
đáng tán thán, và Đức Phật hỏi đó là bảy loại vợ mà một người đàn ông có được,
và Suyata muốn là loại người vợ nào?
Suyata trả lời: "Xin đức Thế Tôn từ nay trở đi nghĩ
về cháu là loại vợ như người phục vụ".
d) Cây bồ đề Ananda
Ông Anathapindika thường hay đến thăm Đức Phật hàng ngày
và thấy các Phật tử tỏ ra thất vọng mỗi khi đến mà không được gặp Phật vì Phật
đi thuyết pháp ở một nơi khác, cho nên hỏi Đại Đức Ananda xem có cách gì để cho
Phật tử có thể cúng dường Phật, dù Ngài vắng mặt. Đại Đức Ananda bạch Phật về
chuyện này và hỏi Phật về các vật đáng được cúng dường, đảnh lễ. Đức Phật trả
lời là có ba loại. Loại đồ vật thuộc về thân Đức Phật, loại đồ vật Đức Phật
thường dùng, và loại đồ vật nhắc nhủ nhớ tới Đức Phật.
Đại Đức Ananda hỏi: "Xây một tháp thờ khi đức Thế
Tôn còn sống có thích hợp chăng?"
"Không, một vật nhắc nhủ nhớ tới Đức Phật không có
cơ sở vật chất, chỉ có ý nghĩa thuần túy tinh thần. Như cây Bồ Đề, được Đức
Phật sử dụng, là một vật đáng cúng dường, dù khi Đức Phật còn sống hay là khi
Đức Phật đã diệt độ rồi."
Đại Đức Ananda nói: "Khi đức Thế Tôn đi thuyết pháp
ở nơi khác, tu viện lớn Jetavana nầy không có nơi để quần chúng quy ngưỡng và
cúng dường. Con có thể lấy hạt cây Bồ Đề lớn ở Bodhi Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng) và
gieo nó ở cửa Tinh Xá Jetavana được không?"
Đức Phật trả lời: "Rất tốt, hãy trồng cây Bồ Đề ở
đây. Như thế khác nào bao giờ Ta cũng có mặt ở Tinh Xá Jetavana nầy".
Đại Đức Ananda nói ý kiến của Đức Phật với Phật tử tại
gia như ông Anathapindika, nữ gia chủ Visakha và vua Pasenadi xứ Kosala. Đại
Đức Ananda nhờ Tôn giả Moggalana (Mục Kiền Liên) tìm cho một quả Bồ Đề trên cây
Bồ Đề lớn ở Bodhi Gaya. Đại Đức Ananda đem trồng ở cửa Tinh Xá Jetavana. Cây Bồ
Đề ấy hiện nay vẫn còn, và được gọi là cây Bồ Đề Ananda.
e) Ông Anathapindika
qua đời và sinh lên cõi trời Đâu Suất
Khi ông Anathapindika lâm bệnh nặng, ông mời Tôn giả
Sariputta đến giảng kinh tại nhà. Cả Ngài Sariputta và Ngài Ananda cũng đến vấn
an ông. Tôn giả Sariputta giảng cho ông nghe một bài kinh sâu sắc. Nghe bài
kinh gần xong, hai mắt ông trào đầy lệ vì quá cảm động. Ông Ananda hỏi vì sao,
thì ông trả lời là ông chưa từng được nghe một bài thuyết pháp sâu sắc đến thế.
Ngài Sariputta trả lời, đây vốn là một bài thuyết pháp chỉ giảng cho những Tăng
sĩ có trình độ tu học cao.
Ít lâu, sau khi hai Ngài Sariputta và Ananda ra đi, ông
Anathapindika qua đời và sanh lên cõi Trời Tushita (Đâu Suất).
Đến tối, thiên chủ Anathapindika, với thân hình sáng chói
cả khu vườn Jetavana, đến chào Đức Phật, tán thán công đức của Tôn giả Xá Lợi
Phất, và bày tỏ niềm vui sướng của mình được thấy Đức Phật và chư Tăng ngụ tại
Tu Viện Jetavana. Thiên chủ Anathapindika nói:
"Ý lành và trí tuệ, tâm được tu tập đúng pháp, lối
sống tối cao cả, dựa trên đạo đức chân chính. Chính điều ấy làm con người thanh
tịnh, chứ không phải danh lợi thế gian".
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét