BƯỚC VÀO CÕI PHẬT – Bài 49. Bàn Về Từ Bi
CốHoằng Hữu Nguyễn Văn Phú
49. BÀN VỀ TỪ BI
Phật tử không ai là
không biết kinh Phổ Môn và Bồ-tát Quan Thế Âm.
Các ngày vía của Ngài là 19 tháng
2, 19 tháng 6, và 19 tháng 9 Âm lịch.
Không phải chỉ riêng vào các ngày đó, các Phật tử mới tụng kinh Phổ Môn
(thường gọi là kinh Cầu An) mà gần như tháng nào hay gặp dịp cần là Phật tử tụng
kinh Phổ Môn, niệm danh hiệu Ngài, chẳng khác trẻ thơ cầu mong mẹ hiền về che
chở.
Quả thật, đối với
chúng ta, Bồ-tát Quan Thế Âm là một người mẹ hiền thương yêu các con rất mực.
Tượng Ngài hình người nữ đứng trên hoa sen, tay mặt cầm cành dương, tay trái cầm
bình thanh tịnh, trong bình đựng nước cam lộ.
Bồ-tát Quan Thế Âm là
hiện thân của đức Từ Bi.
Không tình thương nào
tha thiết hơn tình mẹ thương con, chân thành, thâm thúy, bao la. Bồ-tát Quan Thế
Âm là người mẹ hiền của chúng sinh, dù bận việc giáo hóa ở đâu, một khi nghe tiếng
kêu thương của chúng sinh, Ngài liền hiện thân đến an ủi. Thật vậy, danh hiệu của
Ngài là Quan Thế Âm có nghĩa là quán sát tiếng kêu than của chúng sinh trong thế
gian để độ cho họ thoát khổ. Vì thế
trong các khóa lễ chúng ta vẫn tụng: “Nam
mô đại từ đại bi tầm thanh cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ-tát Ma-ha- tát”.
Cành dương liễu mà
Ngài cầm bên tay mặt tượng trưng cho đức
nhẫn nhục. Tại sao vậy? Vì cành dương liễu không mềm quá đến nỗi gió
nhẹ cũng gục, mà cũng không cứng quá đến nỗi gió lớn phải gãy, trái lại, nó dẻo
dai chỉ uốn theo gió mà vẫn vươn lên, nó theo hoàn cảnh mà không bị hoàn cảnh
chi phối. Nhờ đức nhẫn nhục con người tùy thuận chúng sinh rồi uốn nắn chúng
sinh theo chánh đạo. Thoạt nhìn, con người
nhẫn nhục có vẻ như con người yếu đuối, hèn kém, sự thực người đó vượt lên trên
kẻ phàm tục, không giận không hờn.
Nước cam lộ thơm
ngọt chẳng những giúp người ta qua cơn khát cháy cổ mà về tinh thần mang lại niềm an vui vô tận. Chúng sinh bị phiền não thiêu đốt, nhờ nước
cam lộ của Ngài Quán Thế Âm mà qua cảnh lửa cháy tâm can. Do lòng từ bi, Ngài đã cùng nước cam lộ để dập
tắt lò phiền não.
Nước cam lộ được đựng
trong bình thanh tịnh, tượng trưng
cho ba nghiệp thanh tịnh. Từ bi mà không
thanh tịnh thì còn đâu là từ bi. Bố thí
mà còn mong đền đáp, cầu khen ngợi, muốn lợi danh thì đâu còn là bố thí!
Nói tóm lại, đức Bồ-tát
“đại từ đại bi tầm thanh cứu khổ cứu nạn” thực hiện công hạnh từ bi của Ngài
qua thân khẩu ý thanh tịnh và con đường nhẫn nhục để tùy thuận chúng sinh dìu dắt
họ ra khỏi khổ não.
Đức Phật đã từng dạy
Ngài Ca-Diếp rằng: “Bốn tâm vô lượng của
bồ-tát có thể làm cội gốc cho tất cả hạnh lành”... “Chỉ có bốn tâm vô lượng có
thể làm cho bồ-tát được đầy đủ sáu pháp ba-la-mật, những công hạnh khác chẳng
quyết định được như vậy”.
Bốn tâm vô lượng mà đức
Phật nói đó chính là từ, bi, hỷ, xả.
Từ là lòng thương tất
cả mọi người, tất cả chúng sinh, sẵn sàng giúp cho họ được sự vui, sướng, lợi
ích về vật chất và về tinh thần. Tấm
lòng bình đẳng, không nhiễm mọi sự khổ, sướng.
Đối với chúng sinh không phân biệt kẻ oán thù, người thân thích, không lựa
kẻ thông minh, người ngu độn, kẻ hiền hậu, người ác trược. Với ai, cũng thương tất cả và giúp đỡ cho tất
cả. Lòng Từ của chư Phật, chư bồ-tát
mênh mông, vô tận, phổ khắp tất cả mười phương các cõi thế giới nên cũng kêu là
Đại từ.
Trong kinh Đại Bát-niết-bàn,
đức Phật có giảng về “từ” và “đại từ”.
Ngài nói: “... Lúc bấy giờ, bồ-tát đối với cha mẹ và keœ oán ghét bậc nhất,
tâm được bình đẳng, không sai khác. Như
trên đây, gọi là được tâm từ... Bậc sơ địa
bồ-tát lúc tu đại thừa thấy kẻ hung ác bất tín (nhất xiển đề), tâm không phân
biệt, không thấy lỗi của họ nên không sinh lòng sân. Do nghĩa này mà gọi là “Đại từ... ”
Còn bi nghĩa là gì?
“Bi là lòng thương xót của chư Phật, chư Bồ-tát
đối với sự đau khổ của chúng sinh. Thấy
chúng sinh mê lầm, sa ngã, đau đớn, khổ não, hoạn nạn thì các Ngài lấy làm cảm
động, mong cho họ mau thoát khỏi các cảnh ấy và hằng tìm dịp mà giúp, nâng đỡ,
độ thoát họ nữa. Bi khác với đại bi như
thế này: còn tu tập, chưa đắc đạo thì có lòng bi. Chư Phật, chư đại bồ-tát, chư vị thành đạo
các Ngài có lòng đại bi tràn trề, không bờ bến... ”
Hai chữ từ và bi thường
đi đôi với nhau thành từ bi. Phân tích kỹ
một chút, chúng ta thấy hai khía cạnh: thấy chúng sinh đau khổ, động lòng
thương, tìm cách trừ đau khổ đi cho họ, đó là bi. Thương yêu hết thảy chúng sinh, mưu cầu cho họ
được lợi ích, an vui, đó là từ. Rút lại,
trừ khổ, cho vui, đó là từ bi.
Bồ-tát Quán Thế Âm là
bậc đại từ đại bi, Ngài độ chúng sinh như thế nào?
Trong kinh Diệu Pháp
Liên Hoa, phẩm Phổ Môn của Bồ-tát Quán Thế Âm, đức Phật dạy Bồ-tát Vô Tận Ý rằng:
“Nếu có vô lượng chúng sinh phải chịu mọi sự khổ não, được nghe Bồ-tát Quán Thế
Âm đây mà dốc lòng xưng danh hiệu Ngài, thì Ngài tức thời quán xét tiếng cuả
người ấy để họ được giải thoát...
Ai nhiều lòng dục,
thường cung kính niệm Bồ-tát Quán Thế Âm thì lìa được lòng dục. Ai nhiều hờn giận, thường cung kính niệm Bồ-tát
Quán Thế Âm thì lìa được lòng sân. Ai nhiều vô minh, thường cung kính niệm Bồ-tát
Quán Thế Aâm thì lìa được ngu si...
Ngài dùng sức phương
tiện nói pháp. Nếu cần hiện thân Phật mới
độ được chúng sinh thì Ngài hiện thân Phật mà nói pháp, nếu cần hiện thân trưởng
giả thì Ngaì hiện thân trưởng giả, nếu cần hiện thân phụ nữ thì Ngài hiện thân
phụ nữ v.v... nghĩa là Ngài dùng hết thảy
thân hình dạo đi các cõi để độ chúng sinh...
Bồ-tát Quán Thế Âm đối với chúng sinh ở trong tai nạn nguy cấp sợ hãi,
Ngài hay ban cho nhũng điều không lo sợ, cho nên ở cõi sa-bà này đều gọi Ngài
là bậc Thí Vô Úy... Trong bài kệ ở cuối
phẩm, có những câu này:
Sức
diệu trí Quán Âm → Hay cứu đời thoát khổ
Rộng tu
trí phương tiện Các cõi nước mười
phương
Đều hiện
thân khắp cả... Chân quán, thanh
tịnh quán
Trí tuệ
quán rộng lớn Bi quán và từ
quán
Thường
nguyện thường chiêm ngưỡng Sức thanh tịnh
không nhơ...
Bi thể ran
như sấm Từ ý diệu như mây
Tuôn mưa
pháp cam lộ Dập tắt lửa phiền
não...
Quán Âm bậc
Tịnh thánh Hay làm nơi nương tựa
Cho nạn chết, khổ não...
Đứng trước tượng Ngài, người Phật tử nào cũng cảm thấy một thứ gì dịu hiền,
gần gũi, trang nghiêm, kính mến đến nỗi bật thành lời xưng tụng chân thành, van
cầu thiết tha. Trí Khải Đại Sư, tổ sáng
lập tông Thiên Thai, đã viết đoạn văn sau này (do HT.Thanh Từ ghi lại):
“Cầm nhành dương Ngài rưới nước cam lộ lên khắp cả, trừ nhiệt não làm
cho mọi người được tắm trong dòng suối thanh lương. Nghe tiếng kêu mà cứu khổ cho tứ sanh, Ngài
thuyết pháp để độ thoát cho lục đạo. Sẵn
tâm niệm từ bi kiên cố, đủ dáng vẻ tự tại trang nghiêm, không ai cầu mà chẳng ứng,
không nguyện nào chẳng thành. Cho nên,
chúng con là keœ xuất gia, an trụ trong tịnh quán, chí thành đọc lại mật ngôn
và gia trì pháp thủy. Tịnh thủy này vuông tròn tùy theo bình chứa đựng,
có hay không cũng tùy tiết tùy thời. Mùa
xuân là loãng, mùa đông thì đặc, khi chảy khi đọng thật là mênh mông; nguồn sâu
khó lường, chảy mãi thao thao, thật là dòng linh khôn tuyệt. Ở trong khe đá, nước ngâm bóng loài rồng, ở
dưới ao thu, nước tẩm lấy bóng nguyệt. Tịnh
thủy này hoặc đọng dưới ngòi bút của đấng quân vương để rồi làm tràn ngập sóng
âm, hoặc nằm trên đầu nhành dương liễu của vị giác hữu tình để rưới thành cam lộ
linh diệu. Chỉ cần một giọt nước rưới
lên là mười phương đều sạch trong. ”
Phật tử chúng ta tụng kinh Phổ Môn, nhân ngày vía Bồ-tát Quán Thế Âm, cần
học, hành tinh thần từ bi của Ngài.
Không phải chỉ có đấng quân vương hay vị bồ-tát mới có thể rưới nước cam
lộ cho sinh dân. Những kẻ còn tu tập như
chúng ta từng ngày từng giờ có thể phát tâm từ bi. Dứt được một điều đau khổ tinh thần hay vật
chất cho đồng loại, đem lại một niềm an vui nhỏ nhít đến cho người bên cạnh, ấy
là thực hành từ bi. Không phải đợi xuất
gia, không phải đợi mặc áo tràng, ngày nào giờ nào cũng tu tập được như vậy. Đừng chê điều thiện nhỏ mà không làm, trái lại
cứ làm và tăng trưởng nó lên, căn lành ở đó, nhân lành là thế, tích lại, trữ lại,
rồi dần dà với thân khẩu ý thanh tịnh, ta tạo thêm duyên để nhân lành thành quả
tốt. Nếu cứ gõ mõ tụng kinh Phổ Môn, nếu
cứ cầu xin Ngài Quán Thế Âm, mà bản thân chưa thanh tịnh, căn lành chưa gây,
thì làm sao mà có cảm ứng cho được.
Có văn, phải có tư rồi phải có tu nữa.
Có giáo, có lý thì phải có hành kèm theo. Nếu không, có người sẽ tự hỏi: Ngài Thiên
Thai nói rằng “cầu nào mà chẳng ứng, nguyện nào mà chẳng thành”, tại sao tôi chẳng
thấy ứng, thấy thành gì cả? Cần phải nhớ
rằng Ngài Thiên Thai có nói thêm: “vuông hay tròn tùy theo bình chứa đựng, có
hay không cũng tùy tiết, tùy thời”.
Năng lễ sở lễ tính
không tịch, Cảm ứng đạo giao nan tư nghị dịch là
Phật, chúng sinh tính
thường rỗng lặng, Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn.
Chúng ta cầu xin đức Quán Thế Âm, mong được cảm ứng. Mà sự cảm ứng này, chắc chắn có, không thể
nghĩ bàn. Tuy nhiên muốn có thì phải “rỗng
lặng” đã, nếu tham sân si đầy mình thì cảm ứng vào đâu được!
Bốn tâm vô lượng từ,
bi, hỷ, xả, ấy là căn bản của các công hạnh khác, đức Phật đã dạy rõ
như vậy.
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét