BƯỚC
VÀO CÕI PHẬT – Quyển 2 - Bài 1. Kinh A-Di-Đà
Cố Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú
1. KINH
A-DI–ĐÀ
Trong chùa chúng ta
đây, luôn luôn tụng kinh A-Di-Đà, thế
mà nay nói chuyện về kinh đó, e rằng quý đạo hữu sẽ chán. Nhưng ban Hoằng pháp bàn rằng nên nói bởi vì
tụng luôn đến độ thuộc kinh, không có nghĩa là đã nắm chắc được ý nghĩa và hiểu
được cái lý ở bên cạnh hay đằng sau các sự.
Vì thế tôi phải cố gắng soạn bài!
Trước hết, xin nói về
Phật A-Di-Đà. Tiếng sanskrit dùng hai chữ
Amita và Amitābha, nghĩa là Vô lượng quang.
A-Di-Đà do Amita phiên âm ra,
đã có người đề nghị dùng chữ A-Mi-Đà, nhưng riêng tôi nghĩ rằng chữ A-Di-Đà
quen thuộc lắm rồi nên cũng không cần đổi làm gì. Còn chữ sanskrit Amitāyus thì có nghĩa là Vô lượng thọ. Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật Thích-Ca cho biết
rằng thuở xưa Ngài cùng đức A-Di-Đà và 14 vị nữa là 16 người con của một vị
thái tử, sau khi thái tử này tu thành Phật tên là Đại Thông Trí Thắng, 16 vương
tử xuất gia cả và đều thành Phật . Có 4
phương chính và 4 phương bàng, tất cả là 8 phương, mỗi phương có hai vị Phật, cộng
là 16. Đức Phật A- Di-Đà trụ ở phương
Tây, đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni trụ ở phương Đông Bắc.
Đức Phật A-Di-Đà
Theo A-Di-Đà đại kinh (khác với A-Di-Đà kinh mà chúng ta vẫn tụng), vào
thời đức Phật Thế Tự Tại Vương, có một vị quốc vương tên là Kiều-Thi-Ca đến
nghe pháp, bỏ ngôi, xuất gia làm tỳ-kheo với hiệu là Pháp Tạng. Một hôm, tỳ-kheo đảnh lễ Phật xin chứng minh
cho ngài phát 48 lời nguyện. Phật chứng
minh và thọ ký quả Phật cho tỳ -kheo.
Sau tỳ-kheo tu thành Phật, hiệu là A-Di-Đà, cõi tịnh độ (hay tịnh thổ) của
ngài là Cực lạc thế giới ở phương Tây.
Ngài có hai vị phụ tá là bồ-tát Quán Thế Âm ở bên trái của ngài và bồ-tát
Đại Thế Chí ở bên phải của ngài. Ngài đứng
(hoặc là ngồi) trên tòa sen, hoa sen tượng trưng cho sự thanh tịnh.
Ngài có tất cả 13
danh hiệu:
1. Vô lượng quang Phật (hào quang trí huệ nhiều không thể lường
được)
2. Vô lượng thọ Phật (sống lâu vô cùng)
3. Vô biên quang (hào quang chiếu sáng không biết tới đâu là
cùng)
4. Vô ngại quang Phật (hào quang chiếu sáng mọi cảnh giới,
không gì ngăn che được)
5. Vô đối quang Phật (hào quang mà không cái gì có thể sánh)
6. Diệm vương quang Phật
(hào quang sáng chói lọi)
7. Thanh tịnh quang Phật (hào quang hoàn toàn thanh tịnh)
8. Hoan hỉ quang Phật (hào quang làm cho thân tâm an lạc,
vui vẻ)
9. Trí huệ quang Phật (hào quang phá tối tăm, làm cho sáng
suốt minh mẫn)
10. Bất đoạn quang Phật
(hào quang chiếu sáng liên tục không dứt)
11. Nan tư quang Phật (hào quang mà không ai suy xét cho
cùng được, trừ chư Phật)
12. Vô xưng quang Phật (hào quang mà không có thể mô tả
ra được, rời hết các tướng)
13. Siêu nhật nguyệt quang Phật (vượt qua cả mặt trời mặt
trăng, vì ánh sáng mặt trời và mặt trăng có thể bị ngăn che, hào quang của ngài
thì không).
Kinh A-Di-Đà là một
kinh tương đối ngắn. Đầu đề chữ sanskrit
là Amitābha-sūtra. Chữ Nho là Phật thuyết A-Di-Đà kinh do ngài
Cưu-Ma-La-Thập dịch ra chữ Hán, ta dịch là Phật
nói kinh A-Di-Đà, gọi tắt là kinh
A-Di-Đà hay ngắn nữa là kinh Di-Đà.
(Phật tử chào nhau,
thường nói “A-Di-Đà Phật”, “Mô Phật” là
do “Nam-mô A-Di-Đà Phật” nói gọn).
Bố cục của kinh ấy
như sau này :
1/ Phần mở đầu, gồm có: người kể là ngài
A-Nan, thị giả của đức Phật Thích-Ca; người nói là đức Phật Thích-Ca; nơi nói
là nước Xá-Vệ tại vườn ông Cấp Cô-Độc với
các cây của thái tử Kỳ-Đà, người nghe là các vị thanh văn, bồ-tát, thiên và
nhân ...
(1) Phần mở đầu này
ghi lại lời đức Phật giới thiệu Cực lạc quốc (tên khác: An dưỡng quốc) mà không
cần phải có ai thưa thỉnh cả (đó là một điều rất đặc biệt so với các kinh
khác).
2/ Phần chính, gồm có: quả y báo và quả
chánh báo (chánh báo là thân tâm của mình do những duyên nghiệp từ các kiếp trước
giúp tạo nên, y báo là những quả báo đi theo với chánh báo như nhà cửa, đất nước,
làng xóm ...) tả cảnh và sinh vật trên cõi Cực lạc, giải thích danh hiệu
A-Di-Đà là Vô lượng quang và Vô lượng thọ, tiếp đến lời khuyên tín, nguyện và hạnh.
3/ Phần kết: Phật dạy rằng kinh này khó tin
“Ta đã nói phép khó tin ấy (tức là phép niệm Phật cầu vãng sanh về Tịnh độ) để
cho hết thảy thế gian nghe, như thế thực là việc rất khó”.
Tại sao phép ấy khó
tin? Vì chỉ làm công việc đơn giản là niệm
hồng danh đức Phật A-Di-Đà và dựa vào lời nguyện tiếp dẫn của Phật A-Di-Đà mà
được vãng sanh về Cực Lạc Quốc. Ngẫu Ích đại sư [ở núi Linh Phong nên người ta kêu
là Linh Phong đại sư, hiệu là Trí Húc (1599-1655, đời Minh bên Tàu)] viết:
“Kinh Phật nói rằng ‘Đời mạt pháp, ức vạn người tu hành, ít có một người tu đắc
đạo’. Than ôi! Nay chính là đời mạt pháp
rồi, mà bỏ pháp môn niệm Phật này, thì còn có pháp môn nào tu học được nữa?”.
Chúng ta hàng ngày niệm
Phật, nghe được câu này của vị đại sư “đã hết lòng niệm Phật với một sức mạnh vạn
con trâu kéo không lại”, càng thêm tin tưởng và hăng hái.
Bây giờ,
chúng ta hãy xét về sự và lý ở trong
kinh Di Đà.
Có thể xác nhận rằng
kinh Di-Đà toàn nói về sự việc, sau
đây là một số thí dụ:
1. “Nước Cực Lạc có bảy trùng lan can, bảy trùng màn lưới, bảy
trùng hàng cây, bằng bốn ngọc báu ...”.
2. “Nước đức Phật ấy thường trỗi âm nhạc của các cõi trời
...”.
3. “Có đủ giống chim màu sắc lạ đẹp, như chim bạch hạc, khổng
tước, anh vũ, xá lỵ, ca-lăng-tần-già, ngày đêm sáu thời, hót tiếng hòa nhã diễn
tả diệu pháp ...”.
4. “Chúng sinh đều là các vị chứng ngôi bất thoái ... trong
đó có nhiều vị nhất sinh bổ xứ”.
5. “Cần nên phát nguyện sinh về cõi Cực Lạc để cùng với các
bậc thượng thiện nhân hội họp một chốn...”.
6. “Thiện nam và thiện nữ nào nghe và thụ trì kinh giáo này,
cũng như nghe được danh hiệu chư Phật, đều được hết thảy chư Phật hộ niệm, được
ngôi bất thoái trong đạo vô thượng chính đẳng chính giác ...”
Chư Phật sáu phương
thượng, hạ, Đông, Tây, Nam, Bắc đều “nói lời thành thực khuyên các chúng sinh
‘Chúng sinh cần nên tin tưởng về sự xưng tán công đức không thể nghĩ bàn của
kinh Di-Đà mà hết thảy Phật đã thường hộ niệm’.” Đức Phật dạy thêm: “Nếu có tín
tâm, cần nên phát nguyện sinh sang nước kia (Cực Lạc)”.
Lý của kinh Di Đà ở chỗ
nào? Thoạt tiên, chúng tôi nghĩ đến danh
hiệu của ngài. Hai danh hiệu dùng nhiều
nhất là Vô lượng quang và Vô lượng thọ.
Chiếu sáng khắp mọi nơi, điều này nói lên ý niệm về không gian. Sống lâu vô cùng, điều này nói lên ý niệm về
thời gian. Khắp không gian, suốt thời
gian, đó là cái gì? Xin thưa đó chính là
Pháp thân vậy.
Chư Phật
có ba thân: pháp thân, báo thân và hóa thân ( = ứng thân = ứng hóa
thân). Pháp thân là một tên để chỉ cái Tuyệt đối thường trụ và phổ hiện. Vậy nói đến Phật A-Di-Đà là có ý nhắc đến
Pháp tánh bao trùm và thấm nhuần khắp vũ trụ, nói hẹp hơn, đó là Chân như tức
là Phật tánh chung cho hết thảy chúng sinh, đây là một tư tưởng đại thừa. Đưa ra quan niệm về Chân như quá trừu tượng
thì khó hiểu, cho nên phải tạm nhân cách hóa, cụ thể hóa bằng hình tượng một đức
Phật, đức A-Di-Đà.
Bây giờ xin sang một
điểm khác. Tôi muốn nói đến đoạn này:
“Này Xá-Lỵ-Phất, không thể chỉ có một chút nhân duyên phúc đức thiện căn mà
sinh sang cõi nước Phật kia. Nếu có thiện
nam thiện nữ nào, nghe được danh hiệu Phật A-Di-Đà, trì danh hiệu ấy một ngày,
hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, cho đến bảy ngày, nhất tâm
không loạn, thì khi thọ mệnh hết, người ấy sẽ được Phật A-Di-Đà cùng các thánh
chúng hóa hiện ngay trước, khiến cho khi mất, tâm không điên đảo, liền được đưa
sang cõi nước Cực Lạc của Phật A-Di-Đà.”
Nước Cực Lạc của Phật A-Di-Đà
Thiện căn là cái gốc
lành (Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm
kia mới bằng ba chữ tài – Nguyễn Du, Truyện
Kiều). Ấy là nói về ba nghiệp thân, khẩu, ý đều lành, như là gốc rễ để sinh
ra quả lành. Trong ba nghiệp thì ý nghiệp
quan trọng hơn cả, nên mới bảo là “do cái tâm tức là do lòng mình”. Phúc đức gồm
hai nghĩa: các việc lành và các quả lành do các việc ấy mang lại. Như vậy là niệm Phật phải đi song song với
thiện căn và phước đức (bố thí chẳng hạn) để làm nhân duyên cho sự vãng sinh.
Một ngày, hai ngày
... bảy ngày, nhất tâm không loạn. Đó là
tùy căn cơ mỗi người, niệm Phật đến độ nhất tâm thời gian nhiều ít khác
nhau. Trí Húc đại sư nói rằng có khi phải
nhiều lần 7 ngày. Người niệm Phật có khi
thắc mắc rằng “niệm Phật thì được chứ nhất tâm bất loạn quả là khó”. Chúng tôi cũng thắc mắc giống như vậy nên
chưa biết bàn thế nào. Chúng tôi chỉ
nghĩ rằng cõi Cực Lạc có tới chín phẩm, vậy tùy theo trình độ của sự nhất tâm
mà “xếp hạng”. Dù sao, cứ niệm Phật là
có công đức.
Về phương diện duy thức
(tâm lý), niệm Phật tức là những nhớ nghĩ về Phật được huân thành những
chủng tử tốt ở trong a-lại-da-thức, càng ngày càng nhiều chủng tử tốt, nghĩ đơn
giản thì chủng tử tốt mạnh lên, át chủng tử xấu , cho nên cái nghiệp vô hình chứa
trong cái a-lại-da vô hình sẽ là cái nghiệp lành lúc lâm chung. Trong tâm toàn là niệm về Phật, không có niệm
tham dục, nuối tiếc, hận thù ... lẫn vào, chỉ có niệm về Phật mà thôi, thế thì
nhất tâm rồi, không điên đảo rồi, hẳn là thấy Phật! Phật nào?
Phật A-Di-Đà, chính là Phật tánh, mà Phật tánh ở ngay trong ta chứ ở
đâu. Thế là thành Phật rồi hay sao? Thiền
tông nói “kiến tánh thành Phật” mà! Đó
là nói ngắn thôi, kiến tánh rồi thì phải
khởi tu mới mong thành Phật. Có người
hiểu lầm Lục tổ Huệ Năng, cho rằng ngài chế riễu Tịnh độ tông, thật ra là ngài
muốn nhấn mạnh đến Phật tánh mà không muốn nhắc đến cõi này cõi khác, và ý ngài
muốn bảo rằng: Phật ở ngay trong tâm ta.
Chúng ta đang sống
trong đời nhiều ô trược, tìm được pháp môn tu rất khó. Đức Phật Thích Ca dạy
cho chúng ta pháp môn niệm Phật xây dựng trên ba điều tín, nguyện và hạnh,
thích hợp cho mọi căn cơ. Phật tử chúng
ta cần tinh tấn thực hành.
GHI CHÚ.
(1) Sách vở gọi đó là
các chứng tín, tất cả có 6 thứ gọi là sáu
môn thành tựu: Tín thành tựu (như thị = như thế), Văn thành tựu (ngã văn = tôi nghe), Xứ thành tựu (nơi chốn),
Thời thành tựu (vào một thời kia), Chủ
thành tựu (đức Phật nói), Chúng thành tựu (những người nghe).
(2) Ba thân = tam
thân = the Three Bodies = les Trois Corps = Trikāya (sanskrit) . Pháp thân
= Dharma-body, Body of the great order =
Corps d’essence, Corps de Dharma = Dharmakāya (skt).
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét