Lịch sử Đức Phật Thích
Ca (3/6)
-o0o-
13. Đoàn Tăng sĩ thuyết pháp đầu tiên
Bấy giờ, Đức Phật có sáu mươi đệ tử đều là A
la hán. Ngày quyết định phái họ đi khắp nơi để truyền bá chánh pháp. Trước khi họ
lên đường, Đức Phật đã động viên họ với lời lẽ như sau:
"Hỡi các Tỳ kheo, Ta đã được giải thoát
khỏi mọi ràng buộc thế gian và xuất gian".
"Các ngươi cũng vậy, hỡi các Tỳ kheo,
cũng đã được giải thoát khỏi mọi ràng buộc thế gian và xuất thế gian".
"Hãy đi! Hỡi các Tỳ kheo, vì lợi lạc của
số đông, vì hạnh phúc của số đông, vì lòng lân mẫn đối với thế gian, vì lợi
lạc, vì hạnh phúc của loài Trời và loài người. Các người hãy đi, nhưng đừng đi
hai người cùng một hướng. Hãy truyền bá đạo pháp, hỡi các Tỳ kheo. Đạo pháp
toàn thiện, ở phần đầu, phần giữa cũng như phần cuối, cả trong ý tứ và lời văn,
hãy tuyên bố về cuộc sống Thánh, toàn thiện và thanh tịnh..." (Mahavagga
19).
Tỳ kheo, dịch âm từ chữ Pali
"Bhikkhu", nghĩa là "Người khất thực". Đức Phật, lần đầu
tiên trong lịch sử thế giới, với 60 người học trò đã chứng quả A la hán, tổ
chức thành một tăng đoàn những tu sĩ khất thực, không có nhà ở cố định, không
có của cải vật chất nào khác ngoài tấm áo vàng che thân và bình bát để xin
ăn... Thuyết giảng về đạo lý cứu khổ và cuộc sống thánh hạnh, tự mình nêu gương
sáng về cuộc sống Thánh hạnh và giải thoát, đó là sự nghiệp, là nội dung công
tác chủ yếu của Tăng đoàn đầu tiên, do Đức Phật đích thân thành lập và chỉ đạo.
14. Giác ngộ cho ba mươi thanh niên
Sau khi Đức Phật phái các đệ tử mỗi người đi một ngã để
truyền bá chánh pháp, Ngài cũng lên đường đến Uruvela. Dọc đường, Ngài ngồi
nghỉ ở một gốc cây, trong một khu rừng nhỏ. Lúc bấy giờ, có ba muơi thanh niên
nhà giàu, đem vợ theo đến vui chơi giải trí trong chính khu rừng đó. Trong số
này, có một thanh niên chưa vợ. đem theo một kỹ nữ. Trong khi họ đang vui đùa,
thì người kỹ nữ lẫn trốn với nhiều của cải và đồ trang sức của họ. Các thanh
niên lùng bắt người kỷ nữ trong khu rừng, gặp Đức Phật và hỏi Ngài có thấy
người phụ nữ trẻ qua đây không?
Đức Phật hỏi: "Hỡi các thanh niên, tìm người kỹ nữ
tốt, hay là tìm thấy bản thân mình tốt hơn?"
Họ đều trả lời là tìm thấy bản thân mình tốt hơn.
Đức Phật nói: "Thế thì được! Các bạn trẻ, hãy ngồi
lại đây, Ta sẽ thuyết pháp cho".
Các thanh niên kính lễ Phật với thái độ trân trọng rồi
ngồi xuống nghe Phật giảng pháp. Nhờ nghe pháp, họ được giác ngộ và xin phật
cho xuất gia làm Tỳ kheo.
15. Ba anh em ông Kassapa (Ca Diếp) được giác ngộ
Gần Uruvela, có ba tu sĩ khổ hạnh là ba anh em ông
Kassapa: Uruvela Kassapa, Nadi Kassapa, và Gaya Kassapa. Người anh lớn, Uruvela
Kassapa có 500 đệ tử, hai người em có 300 và 200 đệ tử. Ba anh em ông Kassapa
đều là những đạo sĩ có danh vọng lớn ở xứ Magadha, đặc biệt là người anh cả
Uruvela Kassapa, ông này thờ thần lửa, và tự cho mình đã chứng quả A la hán.
Đức Phật lại gặp ông đầu tiên và xin được phép ngủ qua đêm tại phòng riêng của
ông này, ở đây có thờ một con rắn thiên rất độc. Ông Kassapa tưởng rằng Đức
Phật thế nào cũng bị con rắn thiêng cắn chết, nào ngờ chính con rắn bị Đức Phật
hàng phục bằng sức thần thông của Ngài. Cả ba anh em với số học trò đông đảo
đều xin xuất gia theo Đức Phật.
Sau đó, cả đoàn người cùng đi với Đức Phật đến một nơi
gọi là Gaya Sisa, không cách xa Uruvela mấy. Ở đây, Phật giảng kinh
Adittapariyaya Sutta. Nghe xong kinh này, tất cả các Tỳ kheo có mặt đều chứng
quả A la hán.
16. Sariputta (Xá Lợi Phất) và Moggalana (Mục Kiền Liên)
trở thành hai đệ tử hàng đầu của Đức Phật
Gần thành Vương Xá (Rajagaha), tại làng Upatissa, có một
thanh niên rất thông minh tên là Sariputla. Gia đình ông thuộc loại giàu có và
danh tiếng nhất làng, cho nên o6ng cũng có tên là Upatissa. Tuy sống trong cảng
giàu sang quyền quí, nhưng ông sớm cảm thấy tính trống rỗng, vô vị của cuộc
sống thế tục. Ông cùng với người bạn thân là Moggalana, ở Kokita thường xuyên
khi khắp nơi, tìm thầy học đạo.
Đấy cũng là thời điểm, Đức Phật phái các đệ tử đi truyền
giáo. Sariputta được gặp A la hán Assaji đang đi khất thực trong thàng Vương Xá
và xúc động mạnh mẽ trước dung mạo trang nghiêm và khí sắc giải thoát của vị A
la hán trẻ tuổi này. Sariputta đến gần và hỏi:
"Thưa Ngài tôn kính! Các căn của Ngài thật an tịnh,
màu da của Ngài thật trong sáng. Được sự chỉ đạo của bậc đạo sư nào mà Ngài
xuất gia? Bậc đạo sư của Ngài là ai? Ngài theo giáo lý nào?"
A la hán Assaji trả lời với thái độ khiêm tốn:
"Tôi còn rất trẻ trong Tăng đoàn, thưa Ngài, và tôi
không có khả năng thuyết pháp được nhiều cho Ngài".
Nhưng vì Tôn giả Xá Lợi Phất khẩn khoản yêu cầu, cho nên
A la hán Assaji đọc câu kệ:
"Sự vật bắt nguồn từ nhân duyên
Đức Như Lai nói rõ nhân duyên đó
Và bậc đạo sư cũng nói rõ
Sự vật đó tiêu diệt như thế nào".
Ngài Sariputta rất thông minh, chỉ mới nghe 2 câu kệ đầu
đã chứng ngay Sơ quả. Sau đó, Ngài về baó tin cho người bạn thân Moggalana, và
cả hai người cùng đến yết kiến Đức Phật ở tu viện Veluvana. Đức Phật thâu nhận
hai ông vào Tăng chúng với câu nói đơn giản: "Etha Bhikkhave!" (Hãy
đến đây! Các Tỳ kheo).
Mười lăm ngày sau đó, Sariputta chứng quả A la hán, khi
nghe Đức Phật giảng kinh Vedana Pariggha cho du sĩ ngoại đạo Dighanakha, còn
Mục Kiền Liên thì chứng quả A la hán trước đó một tuần. Ngay chiều hôm Ngài
Sariputta chứng quả A la hán, Đức Phật triệu tập Tăng chúng lại và tuyên bố hai
Ngài là hai vị thượng thủ của Tăng đoàn.
17. Đức Phật về thăm gia đình
Thân phụ Đức Phật, vua Suddhodana bây giờ đã già yếu,
nghe tin Đức Phật thành đạo và đang thuyết pháp ở thành Rajagaha (Vương Xá),
vua rất nóng lòng được gặp lại con. Vua liền phái sứ giả đến Rajagaha (Vương
xá), thỉnh cầu Đức Phật trở về thăm cố đô và gia đình. Nhưng các sứ giả của
Vua, đến Vương xá, đuợc nghe Phật thuyết pháp, đều xin xuất gia làm Tỳ kheo và
chứng quả A la hán.
Vị sứ giả thứ mười là Kaludayi, vốn là người bạn thân cũ
của Đức Phật, lúc Ngài cón là Thái tử. Ông này đến Vương xá, nghe Phật nói
pháp, cũng xin xuất gia và không bao lâu chứng quả A la hán như chín vị sứ giả
trước, Kaludayi không quên chuyển tới Đức Phật lời phụ vương mời Đức Phật về
thăm gia đình. Đức Phật nhận lời, lên đường cùng với đông đảo đệ tử.
18. Đức Phật và Phụ vương Suddhodana
Đức Phật và các đệ tử của Ngài được vua Suddhodana, quần
thần và dân chúng đón tiếp rất long trọng. Được nghe Đức Phật thuyết pháp, vua
chứng ngay Sơ quả (Tư đà hoàn). Khi nghe bài thuyết pháp thứ hai, nhà vua chứng
quả Thánh thứ hai, Sakkadagami (Tư đà hàm), còn bà dì Pajapati Gotami thì chứng
Sơ quả (Sotapana - Tu đà hoàn). Lần thứ ba, Đức Phật giảng kinh Dhammapala
Jàtaka cho vua cha, và vua cha chứng quả Thánh thứ ba (Anagami - A na hàm).
Sách kể rằng, sau nầy, trên giừơng bệnh, vua cha lại được Đức Phật về thăm và
giảng pháp. Lần nghe pháp cuối cùng này, vua chứng quả A la hán. Và sau bảy
ngày tận hưởng lạc thú giải thoát, vua qua đời vào năm Đức Phật tròn 40 tuổi.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Tỳ kheo Thích Minh Châu
---ooo0ooo--
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét