Lịch sử Đức Phật
Thích Ca (2/6)
-o0o-
7. Tu khổ hạnh sáu năm
Thái tử đến một nơi gọi là Uruvela, thị trấn
của Senàni. Ngài tìm được một khoảnh đất đẹp và mát, có con sông nhỏ chạy qua
giữa bờ cát trắng. Gần đây, lại có làng nhỏ, có thể đi khất thực hàng ngày.
Đúng là một nơi yên tĩnh, đẹp đẽ, rất thích hợp với trầm tư mặc tưởng và tu tập
thiền định. Cùng đến nơi đây tu tập với Thái tử còn có các tu sĩ Kondana (Kiều
Trần Như), Bhadhya, Vappa, Mahanama và Asaji. Kondanna vốn là vị đạo sĩ trẻ
tuổi nhất, trong số các đạo sĩ được vua Suddhodana mời tới kinh đô để xem tướng
Thái tử, lúc Ngài mới đản sanh.
Thời bấy giờ, ở Ấn Độ có tập
tục và niềm tin rằng, người nào cầu đạo giải thoát, đều phải kiên trì tu khổ
hạnh, ép xác. Cũng theo truyền thống đó, Thái tử cùng với 5 người bạn đồng tu
trong 6 năm ròng rã, kiên trì khổ hạnh ép xác tới mức con người Thái tử gầy khô
như bộ xương, đôi mắt sâu hoẵm xuống, sức khỏe giảm sút đến nỗi Ngài không còn
đi vững được nữa. Ngài nghiệm thấy, càng kiên trì khổ hạnh, chân lý tối hậu như
càng lùi ra xa, tâm trí càng mê mờ, thân thể càng suy yếu. Ngài thấy rõ, khổ
hạnh, ép xác không phải là con đường thoát khổ và cứu khổ.
Thái tử quyết định ăn uống bình thường trở
lại. Năm người bạn đồng tu, vốn đặt niềm tin và hy vọng tuyệt đối vào Thái tử,
tưởng rằng Thái tử đã thoái chí, bèn rời bỏ Thái tử, đến vườn Nai ở Isipatana
gần thành phố Banares để tiếp tục tu hành. Họ nói rằng, Thái tử Si Đác Ta đã
trở về với cuộc sống tiện nghi và dục lạc vật chất..
8. Chứng Bốn Chân Lý Tối Hậu
Ở lại một mình, Thái tử quyết tâm tự mình
phấn đấu để chứng ngộ chân lý tối hậu. Ngài lấy lại sức, nhờ uống bát sữa, do
một thôn nữ tên là Sujata cúng dường, sau đó, Ngài tắm ở sông Neranjara (Ni
Liên Thuyền). Tối đến, Ngài đến ngồi dưới gốc cây Pippala, sau này được đổi tên
là cây Bồ đề, để đánh dấu sự kiện thành đạo vĩ đại của Ngài.
Với tâm định tỉnh, nhu nhuyến, trong sáng như
gương, Ngài suy tư về lẽ sống chết, về những nguyên nhân tích tập dẫn tới luân
hồi sanh tử và con đường giải thoát, dẫn tới Niết bàn, Ngài nhớ lại, thấy rõ
các kiếp sống trước đây của mình, một kiếp, hai kiếp cho tới hàng trăm ngàn
kiếp. Ngài nhớ lại, thấy rõ các chu kỳ thành hoại của một thế giới, nhiều thế
giới. Ngài thấy rõ các chúng sanh, tùy theo nghiệp nặng nhẹ, thiện ác so mình
tạo ra, luân hồi như thế nào trong các cõi sống, từ thời vô thủy cho tới ngày
nay. Ngài thấy rõ, biết rõ tự bản thân Ngài đã đoạn trừ hết mọi tham ái, lậu
hoặc, vô minh, đã được giải thoát và giác ngộ, và thành tựu đạo Vô thượng. Ngài
đã thành Phật.
Sau này, Đức Phật đã kể lại cho các đệ tử Tỳ
kheo nghe về cảnh giới chứng ngộ của mình như sau: "Nầy các Tỳ kheo! Ta tự
mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sanh, tìm cầu cái không
sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn, và đã chứng được cái không
sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị già, sau khi biết
rõ sự nguy hại của cái bị già, tìm cầu cái không già, vô thượng an ổn khỏi các
khổ ách, Niết bàn và đã chứng được cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ
ách, Niết bàn; tự mình bị bệnh, sau khi biết rõ nguy hại của cái bệnh, tìm cầu
cái không bệnh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị chết,
sau khi biết rõ nguy hại của cái bị chết, tìm cầu cái không chết, vô thượng an
ổn khỏi các khổ ách. Niết bàn và đã chứng được cái không chết, vô thượng an ổn
khỏi các khổ ách, Niết bàn... Tri và Kiến khởi lên nơi Ta. Sự giải thoát của Ta
không bị giao động. Nay là đời sống cuối cùng của Ta, không còn sự tái sanh
nữa". (Kinh Thánh Cầu, Kinh Trung Bộ I, 268).
Như vậy, sau 6 năm gian khổ, kiên trì, không
mệt mỏi, vào năm 35 tuổi. Thái Tử Si Đác Ta đã chứng ngộ chân lý cứu kinh vô
thượng và trở thành Đức Phật, bậc Toàn giác mà sự xuất hiện là chuyện hy hữu
nhất trên đời này.
Từ nay, thế gian tôn xưng Ngài là Đức Phật
Gotama hay là Đức Phật Thích Ca Cồ Đàm. Từ Pali, "Buddha" (Phật Đà)
có chữ gốc "Buddh" là hiểu biết, giác ngộ chân lý tối hậu, cứu kinh.
Sách Pali gọi Ngài là Sammà Sambuddha, với nghĩa là bậc Toàn giác, không gì
không biết, không thấy; bậc Thánh, không những giác ngộ đầy đủ cho bản thân
mình, mà còn giác ngộ đầy đủ cho tất cả mọi người khác, cho tất cả mọi chúng
sanh.
9. Đức Phật do dự trước khi chuyển bánh xe
Pháp
Chuyển Pháp Luân là chuyển bánh xe Pháp, tức
là truyền bá cho thế gian biết về đạo Pháp mà Phật đã chứng ngộ. Ngồi tĩnh tọa
dưới gốc cây Bồ đề, sau khi đã chứng quả giác ngộ vô thượng, Đức Phật có suy
nghĩ như sau:
"Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu
kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ
người có trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng nầy thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham
thích ái dục. Đối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục,
thật khó mà thấy được định lý 'duyên khởi ra các pháp' (Paticcasamuppada): sự
kiện nầy thật khó thấy, tức là sự tịnh chỉ tất cả các hành, sự từ bỏ tất cả
sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết bàn. Nếu nay Ta thuyết pháp thì các
người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ não cho Ta, như vậy thật bực
mình cho Ta" (Trung Bộ I, 268 - 269).
Nhưng rồi Đức Phật nhìn quanh một lượt khắp
thế gian với con mắt trí tuệ và suy nghĩ rằng:
"... Có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi
đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác
tánh, có hạng dễ dạy, khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sinh ở
thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Như trong hồ sen
xanh, hồ sen hồng, hay hồ sen trắng, sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước,
không vươn lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước. Có một số hoa sen
xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, vươn lên
khỏi mặt nước, không bị nưóc thấm ướt. Cũng vậy, nầy các Tỳ kheo, với Phật
nhãn, Ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng
lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy, khó dạy, và một
số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh ở thế giới khác và sự nguy hiểm làm những
hành động lỗi lầm. Và nầy các Tỳ kheo, Ta nói lên bài kệ sau đây:
"Cửa bất tử rộng mở
Cho những ai chịu nghe
Hãy từ bỏ tin tâm
Không chính xác của mình.." (Trung Bộ I,
271)
Rồi Đức Phật quyết định sẽ gióng lên tiếng trống
của Pháp, sẽ chuyển bánh xe Pháp, sẽ tuyên bố với thế gian, với loài người và
loài Trời, con đường đạo cứu khổ và diệt khổ, con đường đạo dẫn tới cõi bất tử,
cõi Niết Bàn. Thế là bánh xe Pháp bắt đầu chuyển.
10. Đức Phật giảng Pháp đầu tiên tại Vườn
Nai, gần thành Ba La Nại (Benares) \
Như đã nói trên, năm tu sĩ, bạn đồng tu của
Thái tử, ở Uruvela, nay vẫn tiếp tục tu khổ hạnh ở vườn Nai gần thành phố
Benares. Họ rời bỏ Thái tử, vì họ tưởng rằng Thái tử đã thoái chí, giữa đường
bỏ cuộc. Nhưng thực ra, sau 6 năm tu khổ hạnh, Thái Tử đã thực nghiệm và thấy
rõ tất cả sự vô ích và vô lý của lối tu khổ hạnh, ép xác chỉ làm con người suy
yếu về thân xác, mệt mỏi về tinh thần. Và Thái tử ở lại một mình, kiên trì,
phấn đấu và cuối cùng đã giác ngộ, thành Phật dưới gốc cây Bồ đề.
Sau khi đã quyết định truyền bá đạo lý cứu
khổ cho thế gian, vì lòng thương xót loài người và loài trời, Đức Phật nghĩ
ngay tới 2 vị thầy cũ của mình là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta, nhưng cả 2
ông này đều đã qua đời cách đây không lâu. Với Phật nhãn, Đức Phật thấy năm
người bạn đồng tu xưa kia của mình đang ở tại vườn Nai gần Benarès và quyết
định họ sẽ là những người đầu tiên được nghe giáo pháp của Ngài.
Rồi Đức Phật lên đường đi Benarès. Tại đây, ở
vườn Nai gần Benarès, Đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên cho 5 người bạn đồng tu
ngày trước của mình. Sự kiện đáng ghi nhớ này diễn ra vào một ngày trăng rằm,
đúng hai tháng sau Đức Phật thành đạo. Sau nầy, nó được biểu trưng một cái bánh
xe, có 2 con nai nâng đỡ hai bên.
Hai con nai biểu trưng cho địa điểm thuyết
pháp, Vườn Nai, cũng gọi là Lộc Uyển. Bánh xe - Dhammacakka - tức là bánh xe
Pháp, sách Hán dịch là Pháp luân. Cả đầu đề bài kinh là Dhammacakkappavattana,
có nghĩa là "chuyển bánh xe Pháp".
11. Nội dung Kinh Chuyển Bánh Xe Pháp
Trong bài kinh này, Đức Phật mở đầu bằng lời
khuyên các tu sĩ không nên mắc vào hai cực đoan: một cực đoan là đam mê thú vui
nhục dục thế gian, thực ra chỉ là những cái tầm thường, nhất thời, ngăn cản mọi
tiến bộ tâm lính. Một cực đoan thứ hai là khổ hạnh, ép xác vì nó làm mệt mỏi
tinh thần, mê mờ trí tuệ, do đó cũng có hại, vô ích. Đức Phật khuyến cáo nên
rời bỏ hai cực đoan trên, và theo con đường Trung Đạo dẫn tới cuộc sống thanh
tịnh, trí tuệ sáng suốt và giải thoát tối hậu. Đó là con đường đạo tám nhánh
nổi tiếng, sách Hán thường dịch là Bát Chánh Đạo:
Chánh tri kiến: Thấy biết chân chánh.
Chánh tư duy: Suy nghĩ chân chánh, ý chí chân
chánh.
Chánh ngữ: Nói năng chân chánh, tức là không
nói dối, không nói ác, không nói chia rẽ, không nói lời vô nghĩa.
Chánh nghiệp: Hành động chân chánh, tức là
không sát sanh, không lấy của không cho, không tà hạnh, không rượu chè.
Chánh mạng: Sinh sống bằng nghề chân chánh,
không phải bằng nghề bất lương, như buôn bán lừa đảo, buôn vũ khí và thuốc độc,
buôn bán nô tỳ...
Chánh tinh tấn: Siêng năng chân chánh, diệt
bỏ điều bất thiện, làm mọi điều tốt lành.
Chánh niệm: Nghĩ nhớ chân chánh, không nghĩ
nhờ điều tà vạy, ác xấu, mê lầm.
Chánh định: Tập trung tư tưởng chân chánh,
không để tư tưởng tán loạn, chạy theo dục vọng.
Con đường tám nhánh là con đường đạo chân
chánh, dẫn tới chấm dứt mọi đau khổ, phát khởi trí tuệ, đưa đến Niết bàn, là sự
giải thoát vĩnh viễn khỏi vòng sống chết luân hồi, là sự thanh tịnh tuyệt đối
và an lạc tuyệt đối.
Trong bài thuyết pháp đầu tiên này, Đức Phật
giảng về bốn chân lý cao cả, cũng gọi là bốn chân lý Thánh, bởi vì chúng được
phát hiện và tuyên thuyết bởi bậc thánh vĩ đại nhất là Đức Phật. Đó là chân lý
về sự khổ (sách Hán gọi là Khổ đế), chân lý về nguyên nhân của khổ (Tập đế),
chân lý về diệt khổ (Diệt đế), chân lý về con đường đạo diệt khổ (Đạo đế).
Nghe xong bài thuyết pháp này, và một bài thứ
hai có đầu đề "Anttalakkhana sutta", bàn về thuyết vô ngã (không có
cái Ta), năm vị tu sĩ ở vườn Lộc Uyển được giác ngộ và không bao lâu trở thành
A la hán.
12. Đức Phật giác ngộ cho Yasa và những người
bạn
Gần Benares, có con trai người triệu phú tên
là Yasa, tuy sống cuộc đời đầy đủ xa hoa, nhưng lại sớm chán cảnh sốngv thế
gian tầm thường vô vị. Yasa tìm đến Đức phật, bộc lộ với Đức Phật tâm trạng
chán chường của mình, và được Đức Phật thuyết pháp về hạnh bố thí, về nếp sống
đạo đức, về các cõi Trời, về nguy hại của dục lạc thế gian, về hạnh phúc của
nếp sống Thánh, hỷ xả, không tham trước. Và sau đó, Đức Phật giảng cho Yasa vế
bốn chân lý cao cả: sự khổ, nguyên nhân của khổ, cảnh giới Niết bàn an lạc và
con đường đạo tám nhánh dẫn tới Niết bàn.
Cha của Yasa, trên đường đi tìm con trai,
cũng đến Vườn Nai và được nghe Phật thuyết pháp, ông xin Phật cho quy y và trở
thành người đệ tử tại gia đầu tiên của Phật. Còn Yasa thì xin Phật cho xuất gia
và không bao lâu chứng quả A la hán. Khi Đức Phật đến thăm nhà cha của Yasa
theo lời thỉnh cầu của ông này, thì cả người mẹ và người vợ cũ của Yasa cũng
xin quy y làm đệ tử tại gia của Đức Phật. Bốn người bạn của Yasa là Vimala,
Subaha, Tunnaji và Barampati, noi gương Yasa cũng xin xuất gia, và không bao
lâu đều chứng quả A la hán.
Ngoài ra, hơn năm mươi người bạn khác của
Yasa, từ các gia đình và địa phương khác nhau, nghe tin Yasa chứng được Thánh
quả, cũng đều tụ tập về đây xin xuất gia theo Đức Phật, và sau một thời gian,
tất cả đều chứng quả A la hán.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Tỳ kheo Thích Minh Châu
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét