BƯỚC
VÀO CÕI PHẬT – QUYỂN 2 – BÀI 8
Cố Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú
-o0o-
8.
TỔ BỒ-ĐỀ-ĐẠT-MA
Trong lịch sử Phật giáo đại thừa Trung
quốc, Việt Nam
và Nhật bản ... ngài Bồ-Đề-Đạt-Ma giữ một
vị trí đặc biệt. Thật vậy, ngài là tổ
khai sáng Thiền tông tại Trung quốc vào thế kỷ thứ sáu, cho đến ngày nay, tông
phái ấy vẫn còn giữ một địa vị hàng đầu, nhất là tại Nhật bản; người ta nói rằng
văn hóa Nhật bản chịu ảnh hưởng rất sâu đậm của pháp môn Zen.
Người ta hay gọi ngài là Đạt-Ma đại sư
hay Đạt-Ma tổ sư. Hôm nay, nói về ngài, chúng tôi xin thưa trước rằng những tài
liệu đưa ra đây đều được nhặt nhạnh trong các sách và có nhiều chi tiết mang
tính cách hoang đường. Ngay như năm
sinh, năm mất của ngài cũng không chắc chắn, The Shambala Dictionary of Buddhism and Zen ghi năm sinh là khoảng
470, năm mất là 543 với một chấm hỏi.
Ngài Ca-Diếp điều khiển Giáo Hội sau
khi đức Thích-Ca nhập diệt, ngài là tổ thứ nhất của Phật giáo. Y và bát truyền
dần xuống đến tổ thứ 27 là ngài Bát-nhã-đa-la, vào khoảng một ngàn năm sau khi
Phật nhập Niết-bàn. Khi ngài
Bát-nhã-đa-la đi hoằng hóa về phía Nam nước Ấn-Độ, ngài được vị vua của
một tiểu vương quốc tại đó tên là Hương Chí thỉnh về cung cúng dàng. Nhà vua có ba hoàng tử tên là Nguyệt-tịnh-đa-la,
Công-đức-đa-la, Bồ-đề-đa-la, đều sùng kính Phật pháp.
Tổ hỏi nhiều câu để thử xem ba hoàng tử
căn cơ ra sao. Người thứ ba với tài đối
đáp bộc lộ sự tinh thông Phật pháp làm cho ngài vui lòng mà nhận ta rằng ngài
đã tìm ra người để truyền tâm ấn.
-
Trong các vật, vật gì là không tướng?
-
Chẳng khởi là không tướng..
-
Trong các vật, vật gì là tối cao?
- Nhơn ngã là tối cao.
Tổ
Bát Nhã Đa La
[Riêng tôi, tôi thấy chỗ này khó hiểu, vì nhơn
ngã tức là cái bản ngã của con người, mà đạo Phật không chấp nhận nhơn ngã và
pháp ngã, và bảo rằng ngã, pháp đều không; hay là ở đây muốn chỉ cái Ngã thật sự
của con người tức Phật tánh? Xin nêu vấn đề].
-
Trong các vật, vật nào là tối đại?
-
Pháp tánh là tối đại (the nature of dharmas is the
biggest).
Khi vua Hương Chí băng, hai anh lớn
khóc lóc, riêng người con út Bồ-đề-đa-la ngồi nhập định bên linh cữu suốt bảy
ngày và sau tang lễ, xin phép hai anh và được hai anh cho phép xuất gia, sau được
tổ Bát-nhã-đa-la truyền y bát làm tổ thứ
28. Tổ dặn rằng chỉ tạm ở Ấn-Độ thôi,
sau sẽ phải sang hoằng pháp tại Trung Hoa, nhưng phải đợi 60 năm sau khi ngài tịch
diệt (vì chi tiết này mà có người nói rằng tổ thứ 28 sống trên 100 tuổi) vì đi
ngay thì có nhiều điều không hay.
Anh cả của ngài lên nối ngôi vua cha,
khi nghe ngài kể lại lời dặn dò của tổ thứ 27, thì cung cấp thuyền bè và thủy
thủ để ngài sang Trung Quốc. Lênh đênh
trên mặt biển ba năm trời, cuối cùng ngài đến Quảng Châu, năm 520, thời vua Võ
Đế nhà Lương (nhà Lương: 502 – 557; sử Tàu còn có Hậu Lương: 907 – 923). Có nơi nói rằng lúc đó ngài 60 tuổi, điều này
rõ ràng trái với chuyện vừa kể trên đây.
Được địa phương báo cáo, Lương Võ Đế thỉnh ngài về kinh đô Kim
Lăng.
Khi viết tiểu sử của ngài, người ta gọi
ngài là Bồ-Đề-Đạt-Ma (đa-la đổi thành đạt-ma lúc ngài xuất gia. Bodhi dịch là
giác hay là đạo, dharma dịch là pháp, nên có chỗ gọi ngài là Đạo Giác). Sách thường nhắc đến câu chuyện trao đổi giữa
ngài và Võ Đế:
-
Trẫm thường cất chùa, độ tăng ni, in kinh sách không biết bao nhiêu, vậy
có công đức gì không?
-
Đều không có công đức.
-
Tại sao?
-
Vì những việc ấy là nhân hữu lậu, chỉ có quả báo ở cõi trời và cõi người,
như bóng theo hình, tuy có mà chẳng phải thật.
-
Thế nào là công đức chân thật?
-
Trí thanh tịnh tròn đầy, thể tự không lặng, công đức như thế chẳng do thế
gian mà cầu.
-
Thế nào là thánh nghĩa đế thứ nhất?
-
Rỗng rang, không thánh.
-
Đối diện với trẫm là ai?
-
Không biết!
Nhận thấy căn cơ chưa hợp, ngài vượt
sông Dương tử, ngược lên phía Bắc, đến nước Ngụy, tới trụ trì tại chùa Thiếu
Lâm trên núi Trung Sơn, ngồi im lặng nhìn vào vách, vì thế mà người ta gọi ngài
là Bích quán bà-la-môn (thày bà-la-môn nhìn vách).
Truyền thuyết nói ngài ngồi
như thế nhiều năm liền!
Một vị tăng giỏi tên là Thần Quang đến
cầu pháp nơi ngài mà ngài vẫn chưa quay ra.
Vị sư này kiên nhẫn chờ, tuyết rơi ngập đến đầu gối mà không lùi, lại
còn chặt cánh tay trái để chứng tỏ lòng thiết tha cầu đạo của mình. Tổ khen. Sư thưa:
- Tâm con chưa an, xin thày dạy pháp
an tâm.
- Đem tâm ra đây ta an cho.
- Con tìm tâm không thể được.
-
Ta đã an tâm cho ngươi rồi.
Tới đó sư Thần Quang ngộ, theo học Tổ
nhiều năm, Tổ đổi tên của sư thành Huệ Khả; sau này tổ truyền y
bát cho ngài Huệ Khả làm tổ thứ nhì của Thiền tông.
Theo một truyền thuyết kể trong sách Cảnh đức truyền đăng lục thì sau chín
năm trụ ở Thiếu Lâm Tự, ngài Đạt-Ma nhớ quê và quyết định hồi hương. Ngài thử nghiệm sự thực chứng của các môn đồ
và bảo nói ra chỗ sở đắc của mình.
Sư Đạo Phó thưa: Theo chỗ thấy của
con, chẳng chấp văn tự, chẳng lìa văn tự, đấy là dụng của đạo.
Tổ bảo: Ngươi được phần da của ta.
Ni Tổng Trì thưa: Nay chỗ hiểu của con,
như tổ A-nan thấy nước Phật A-Súc, chỉ thấy một lần, không còn thấy lại.
Tổ bảo: Ngươi được phần thịt của ta.
Sư Đạo Dục thưa: Bốn đại vốn không,
năm ấm chẳng có, chỗ thấy của con không một pháp có thể được.
Tổ bảo: Ngươi nắm được phần xương của
ta.
Đến Huệ Khả bước ra đảnh lễ, rồi lui lại
đứng im lặng.
Tổ bảo: Ngươi được phần tủy của ta.
Và ngài truyền y bát cho Huệ Khả, tặng
cho bộ kinh Lăng-Già, ngài cho rằng
đó là kinh mà Phật nói “tột pháp yếu”, giúp cho chúng sinh mở, bày, ngộ, nhập
kho tri kiến Phật (khai thị ngộ nhập Phật tri kiến).
Khi ngài cùng đồ chúng đến chùa Thiên
Thánh ở Võ Môn được ba hôm thì ngài an nhiên thị tịch (năm 529, theo các tài liệu
chữ Hán). Nhục thân được đưa vào tháp tại
chùa Định Lâm, trên núi Hùng Nhĩ.
Sứ của vua Ngụy tên là Tống Vân đi Tây
trúc thỉnh kinh về, gặp ngài, thấy ngài tay cầm một chiếc dép, bèn hỏi ngài đi
đâu. Ngài đáp: “Về Ấn-Độ. Thày của ngươi chán đời rồi”.
Tống Vân về triều thì vua đã băng, có
vua mới. Đem chuyện trình lên, vua cho mở
quan tài thì không thấy người đâu, chỉ còn một chiếc dép. Vua cho đem chiếc dép đó về thờ ở chùa Thiếu
Lâm, sau thờ ở chùa Hoa Nghiêm.
Có một thuyết nói rằng ngài bị thuốc độc
mà tịch vào lúc ngài 150 tuổi.
Tại nhiều chùa, có thờ tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma. Hình thờ vẽ một nhà sư da ngăm, râu rậm, mắt
to, dáng đi nhanh, vai vác một cành cây nhỏ, đầu cành treo một chiếc dép. Đó là nhắc lại chuyện trên đây. Người ta cho
rằng “một chiếc dép chứ không phải hai” là để nói đến pháp môn bất nhị của đạo Phật.
Tượng
thờ Đạt Ma Tổ Sư
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét