BƯỚC VÀO CỬA PHẬT
Hoằng Hữu NGUYỄN VĂN PHÚ
-o0o-
1. LƯỢC SỬ ĐỨC PHẬT THÍCH-CA
Cách đây trên 25 thế kỷ, vào thời mà nước ta có quốc
hiệu là Văn Lang, và do các vị vua cuối của 18 đời vua Hùng Vương trị vì,
thì tại thành Ca-Tì-La-Vệ của một tiểu vương quốc ở phía Bắc nước Ấn-Độ,
có một vị Phật ra đời, đó là đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni.
ĐỨC PHẬT THÍCH -CA MÂU-NI
Thân sinh Ngài là vua Tịnh-Phạn; thân mẫu Ngài là hoàng hậu
Ma-Da. Hoàng hậu nằm mơ thấy một con voi trắng sáu ngà từ hư không đi
xuống chui vào hông bên hữu của bà rồi từ đó bà có thai, và theo lệ cổ,
bà về quê bà ở xứ Câu-Ly để chờ ngày sanh. Trên đường đi, hoàng hậu ghé
vào vườn Lâm-Tì-Ni để thưởng ngoạn mùa hoa nở. Đến một gốc cây, khi hoàng
hậu đang đưa cánh tay mặt vin cành xuống thì hạ sanh một thái tử, mà nhà
vua đặt tên là Tất-Đạt-Đa, họ Cồ-Đàm, thuộc bộ tộc Thích-Ca. Hôm đó là
ngày trăng tròn tháng hai Ấn-Độ, tức rằm tháng tư âm lịch, vào năm 623
trước Tây lịch. Vậy thái tử Tất-Đạt-Đa sinh trước chúa Giê-Su Ki-tô 623
năm, sinh trước đức Khổng-Tử chừng 100 năm, sinh trước giáo chủ đạo Hồi
chừng 1000 năm.
Khi thái tử đản sanh, các vị trời Đế-Thích trải hoa
sen đầy mặt đất, thái tử chân đạp hoa sen, bước đi bảy bước, nhìn khắp
bốn phương, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, nói rằng: “Trên trời dưới
trời, chỉ có Ta là quí hơn cả!”.
THÁI TỬ ĐẢN SANH
Bảy ngày sau, hoàng hậu Ma-Da lìa trần. Vị thái tử mồ côi mẹ
được dì ruột là Ba- Xà-Ba-Đề nuôi dưỡng, bà này là một vương phi của vua
Tịnh-Phạn (về sau bà lãnh đạo Tỳ-khưu-ni trong Giáo Hội).
BÀ BA-XÀ-BA-ĐỀ - THÁI TỬ TẤT ĐẠT ĐA
Vua Tịnh-Phạn tuy vui mừng vì có thái tử nối dòng nhưng vẫn
âm thầm lo nghĩ vì các đạo sĩ đến xem tướng thái tử đều căn cứ vào 32
tướng tốt của ngài mà kết luận rằng Ngài sẽ tu thành Phật chứ không nối
ngôi vua để mà trị vì xứ Ca-Tì-La-Vệ.
Khôn lớn lên, thái tử tỏ ra thông minh tuyệt đỉnh, văn
võ toàn tài, nhưng điểm nổi bật nhất nơi cá tính Ngài là Ngài không ưa
cảnh ồn ào náo nhiệt, không ưa những thú vui tầm thường, mà lại thích
trầm tư mặc tưởng, tham thiền nhập định. Năm 16 tuổi, thái tử kết hôn với
công chúa Da-Du-Đà-La xinh đẹp và đức hạnh. Thái tử ra chơi các cửa
thành, gặp cảnh lão, bệnh, tử, thì sinh lòng nghĩ ngợi.
MINH HỌA "SINH-LÃO-BỆNH-TỬ"
Một lần Ngài gặp một vị sa-môn ôm bình bát, chống tích
trượng khoan thai bước tới, dáng điệu vô cùng ung dung tự tại. Ngài nảy ý
xuất gia từ lúc đó. Cung vàng điện ngọc, các thú vui trần tục không còn
có gì hấp dẫn thái tử được nữa và, vào năm 29 tuổi, khi người con duy
nhất là La-Hầu-La chào đời, thì Ngài từ bỏ hết để đi tìm chân lý và giải
thoát. Sau này, đức Phật độ cho vợ con xuất gia. Bà Da-DuĐà- La đắc quả
thánh, La-Hầu-La là một trong mười đại đệ tử của Phật.
“Đây là một sự từ khước chưa từng có trong lịch sử, vì không
phải Ngài khước từ cuộc sống vương giả trong lúc tuổi già sức yếu mà giữa
thời niên thiếu xuân xanh, không phải trong cảnh đói rách nghèo nàn mà
trong lúc ấm no sung túc”. Ngài tới tham học hai đại sư trứ danh đương
thời nhưng Ngài không được thỏa mãn vì vẫn không tìm ra được đường giải
thoát thích đáng.
Ngài bên vào rừng sâu tu khổ hạnh trong sáu năm trường, mỗi
ngày chỉ ăn uống chút ít, đến nỗi thân hình chỉ còn da bọc xương, nhưng
rốt cuộc cũng chẳng thành công. Nhận thấy phương pháp khổ hạnh không phải
là con đường chân chính, Ngài bên trở lại lối sống bình thường. “Lợi
dưỡng làm chậm trễ tiến bộ tinh thần, khổ hạnh làm suy giảm trí thức”.
Con đường của Ngài là con đường Trung Đạo.
Một mình ngồi dưới cội bồ-đề, Ngài vận dụng tâm trí quán sát
tướng chân thật của vũ trụ. Một hôm, Ngài bừng ngộ, thấy rõ chân lý của
cuộc đời, biết rằng con người có đủ khả năng thành Phật, nghĩa là khả
năng giác ngộ và giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Ngài đã giác ngộ,
Ngài đã thành Phật vào lúc 35 tuổi. “Không phải Ngài sinh ra là Phật, mà
Ngài tu hành trở thành Phật do nỗ lực của chính mình”.
DƯỚI CỘI BỒ ĐỀ
Sau 45 năm trường hoằng dương đạo pháp, cũng như tất cả mọi
người trên thế gian, chịu sự chi phối của luật vô thường, Ngài tịch diệt
trong rừng cây sa-la, gần thành Câu-Thi-Na. “Đức Phật Thích-Ca
Mâu-Ni là một chúng sinh trong cảnh người. Ngài sinh ra như một người, sống như
một người và chấm dứt cuộc đời như một người. Mặc dầu là người, Ngài đã
trở thành một người phi thường”, do đại hùng, đại lực, đại từ bi, đã tìm
ra chân lý, tìm ra đường giải thoát, đem truyền giảng cho chúng sinh, dạy
cho chúng sinh phải trông cậy vào chính mình để tự giải thoát, dạy cho chúng
sinh xem giáo pháp của Ngài là tôn sư của mình, dạy cho chúng sinh nhận
biết luật nhân duyên quả báo là một trong những định luật bất di bất
dịch, chi phối khắp càn khôn vũ trụ.
Có vài chi tiết ghi trong kinh sách mà một số người cho rằng
có tính cách hoang đường. Thật ra, mấy chi tiết đó chỉ là những điều
tượng trưng nhằm nhấn mạnh một điều gì đó trong giáo pháp của đức Phật mà
thôi.
Hoàng hậu Ma-Da nằm mơ thấy “voi trắng sáu ngà”chui
vào bụng bà và từ đó bà có mang rồi sinh ra thái tử, sau là Phật
Thích-Ca. Một trong các cách giải thích là cho rằng voi sáu ngà tượng
trưng cho đạo bồ-tát với lục độ ba-la-mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục,
tinh tấn, thiền định và trí huệ. Voi là con vật khỏe hơn cả, khôn hơn cả,
biết sống thành đoàn có kỷ cương, biết chở nặng, nó tượng trưng cho người
hành đạo bồ-tát theo lý thuyết đại thừa, biết tự độ và độ tha.
Khi mới sinh ra, thái tử bước bảy bước trên hoa sen. Sao lại
“bảy bước”? Sao lại “hoa sen”? Chúng ta có thể hiểu rằng Ngài đã vượt qua
sáu cảnh giới địa ngục, ngã quỷ, súc sanh, a-tu-la, người, trời rồi. Ngài
đã lên bước thứ bảy, tức là đã nhập thánh đạo, không còn vướng vòng sinh
tử luân hồi. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh tịnh, gần bùn mà chẳng hôi
tanh mùi bùn. Tại sao thái tử nói “Ta đáng tôn quí hơn cả”? Đây là nói
đến TA với ý nghĩa Pháp Thân. Phật có ba thân: báo thân, hóa thân, và
pháp thân. Pháp thân là tuyệt đối, là Phật tính, là Chân Như, là bản thể
của vạn sự, vạn vật; Pháp thân, thấm nhuần vạn pháp, là nguồn sống của
vạn pháp, quí báu nhất trong vũ trụ nên trên trời dưới đất không có gì
sánh kịp.
Học lược sử đức Thế Tôn, Phật tử chúng ta cố học lấy bài học
đại hùng, đại lực, đại từ bi của đấng Từ Phụ, phát nguyện tu trì theo đường
Ngài đã chỉ, hồi hướng công đức đến khắp mọi chúng sinh để tất cả mau
chóng đến được bờ giải thoát.
Học Phật, tu Phật, chúng ta vừa tìm hiểu vừa tu hành, để cho
lý và sự viên dung, không để cho lý che lấp mất sự, và cũng không để cho
sự lấn át mất lý, cốt sao cho phước và huệ ngày càng tăng tiến song song,
mỗi giây mỗi phút bước gần đến Phật, mà Phật đâu có ở xa, Phật ở ngay
trong tâm chúng ta đây. Chỉ vì chúng ta hướng ra ngoại cảnh quá nhiều, ham muốn
quá nhiều, nên quên mất nội tâm, quên mất Phật tánh trong chính mình. Học
lược sử đức Thế Tôn, để tỏ lòng thành kính và biết ơn Ngài, chúng ta hãy gạt
bỏ dần dần tam độc tham sân si, thanh tịnh hóa dần dần thân khẩu ý, màn
vô minh sẽ dần dần được vén lên. Như thế mới xứng đáng là Phật tử.
Ghi chú. Những câu trong ngoặc kép được trích từ Phật Học Tinh
Hoa của Thu Giang Nguyễn Duy Cần.
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét