Cố Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú
39. NIẾT –
BÀN
Trong sách Việt Nam Văn Học Sử Yếu, tác giả Dương quảng Hàm đã trích một
đoạn lấy trong cuốn Phật Giáo Lược Khảo của Phạm Quỳnh, liên quan đến Niết-Bàn
để làm bài đọc thêm. Ông Phạm Quỳnh viết: “... Muốn thoát khổ thời phải diệt khổ,
nhưng khổ là liền với thân, khổ là một với sống, diệt khổ là diệt thân, diệt sống,
tự diệt vậy ... Song người đời vẫn lấy sự hư vô làm sợ; nếu mãn kiếp tu hành, hết
sức học đạo mà cứu cánh chỉ đến tiêu nhập vào chốn hư vô, thời kinh hãi biết chừng
nào! Phật cũng biết thế, nên Phật đối với
vấn đề cứu cánh cũng giữ một thái độ như Khổng phu tử đối với quỷ thần vậy;
không hề nói rõ bao giờ, mỗi khi đề cập đến, vẫn có ý thoái thác ... Xưa nay những
bậc triết nhân quân tử đã sáng suốt mọi lẽ, đã thấu hiểu mọi sự, muốn ra tay tế
độ cho quần sinh thường có nhiều điều tự mình biết mà không thể truyền bá ra được
tức như ông thày thuốc biết là bệnh trạng nguy mà không dám nói rõ cho bệnh
nhân biết vậy. Phật tổ cũng vậy: chắc
trong ý riêng vẫn biết rằng linh hồn sau khi tịch diệt rồi là vào cõi tịch mịch
hư vô, chớ chẳng phải nơi thiên đàng cực lạc gì; nhưng không hề thuyết minh cho
ai biết bao giờ, là sợ có kẻ chưa thoát sạch trần tục, nhân thế mà ngã lòng tu
đạo chăng? vì những sự biết như thế là sự biết “chết người” vậy...”.
Chúng tôi thấy rằng lập luận như trên thì chưa xứng với một học giả
như ông Phạm Quỳnh vì ông đã dùng những mệnh đề như “chắc trong ý riêng vẫn biết
...”, “sợ có kẻ ... chăng?”, thật là mơ hồ.
HT Thiện Hoa đã viết (nói chung chung chứ không hỉ trích riêng ai):
“...nhiều người đã hình dung một cách quá sai lạc nên cuối cùng kết luận rằng cứu
cánh của đạo Phật là một sự không tưởng.”. HT dùng chữ không tưởng (utopie) còn
ông Phạm Quỳnh dùng chữ hư vô (néant).
[“In the West, nirvàna has often been misunderstood as mere
annihilation” (trong The Shambala
Dictionary of Buddhism and Zen)].
Để kết luận, ông Phạm Quỳnh có trích dẫn ý kiến của Oldenberg “Chúng
tôi đã hết sức nghiên cứu mà kết quả cũng lạ thay: chỉ có hai thuyết, không ra
ngoài được, một rằng nát-bàn là cõi hư vô, hai rằng nát-bàn là nơi cực lạc, thời rút cục lại chẳng thuyết nào
đúng hẳn”. (Oldenberg là người Đức, tác giả một cuốn sách do Foucher dịch ra tiếng
Pháp là Le Bouddha, Sa Doctrine et Sa
Communauté, nhà Félix Alcan xuất bản năm 1921. Xin cám ơn đạo hữu Đào Đức Hoành đã tặng tôi cuốn sách ấy).
Chúng ta thử tìm hiểu xem Niết-bàn là gì. Chữ pali nibbāna, chữ sanskrit nirvāna được phiên âm thành nê-hoàn hay
niết-bàn-na, gọi ngắn là niết-bàn, nát-bàn.
Nir là ra khỏi, vana là rừng (ý nói rừng mê), niết-bàn là ra khỏi rừng
mê (theo Đoàn Trung Còn). Dịch nghĩa là
diệt, diệt tận, diệt độ, tịch diệt, bất sinh, viên tịch, giải thoát, vô vi, an
lạc (theo Chân Nguyên & Nguyễn Tường Bách).
HT Thiện Hoa nói rằng còn nhiều nghĩa nữa, nhưng không ra ngoài ba ý:
bất sanh, giải thoát, tịch diệt. Bất
sanh: không sanh ra, không sanh tội lỗi.
Giải thoát: khỏi mọi sự ràng buộc.
Tịch diệt: vắng lặng, an lành, dứt hết nguồn gốc mê lầm.
Đối với Nam tông, có hai loại Niết-bàn: hữu dư niết-bàn chưa được hoàn toàn bởi vì còn phải chịu quả báo, sự
an vui chưa trọn vẹn, và vô dư niết-bàn của bậc a-la-hán đã hoàn toàn dứt bỏ mọi phiền não. Vô dư Niết-bàn
còn được gọi là Niết bàn toàn phần hay Bát-niết-bàn (Parinirvàna).
Cụ Đoàn Trung Còn viết: “Vô dư Niết-bàn là cảnh Niết bàn rốt ráo,
không còn để lại cái chi hết nghĩa là không còn nghiệp báo khổ quả chi nữa. Khi
Phật, Thánh đắc Niết -bàn nhưng còn trụ thế, còn trả những quả báo còn dư từ những
đời trước, còn chịu cái Nghiệp chung của chúng sanh, kêu là Hữu dư Niết-bàn.
Khi đến thời kỳ bỏ cái xác thân này, dứt hết tất cả, kêu là Vô dư Niết-bàn. Như
nói: Phật nhập Vô dư Niét-bàn tại rừng cây ta-la, gần thành Câu-thi-na”.
Đối với Bắc tông, thế vẫn chưa xong.
Phải lên tới vô trụ niết-bàn của
bậc bồ-tát, đến mức coi không thật có sinh tử, không thật có niết-bàn, bồ-tát
ra vào sanh tử mà độ sanh, vì lý tưởng của bồ-tát là “trên cầu đạo bồ đề, dưới
độ chúng sanh”. Còn tánh tịnh niết- bàn
thì đích thực là Phật tánh, Chân tâm, Chân như, Như lai tạng ...
Để cho đủ, chúng ta phải kể bốn đức của Niết-bàn (niết-bàn tứ đức), đó là: thường, lạc, ngã, tịnh. Thường: không bị luật vô thường chi phối. Lạc: hết hẳn khổ não. Ngã: hoàn toàn tự chủ, nội tâm và ngoại cảnh
không chi phối được. Tịnh: hoàn toàn
thanh tịnh trong sáng. Có sách còn kể đến
tám đức (niết-bàn bát đức).
Như trên vừa nói, Nam tông phân biệt hai loại Niết-bàn: Hữu dư Niết-Bàn
và Vô dư Niết-Bàn. Đối với bồ-tát đạo của Bắc tông thì chư bồ-tát hoãn việc nhập
Niết-bàn bởi vì hạnh nguyện của các ngài là độ hết thảy chúng sinh vào Niết-bàn.
Khi còn chúng sinh vướng nẻo luân hồi thì bồ-tát coi như việc chưa xong! Bắc
tông không thấy sự khác biệt giữa Niết-bàn và sinh tử. Chư bồ-tát chứng Niết-bàn
mà không trụ nơi đó cho nên đó là Vô trụ Niết-Bàn. Đó cũng là trạng thái Niết-Bàn
của các vị Phật đã thoát khỏi ràng buộc của thế gian nhưng chưa muốn hoàn toàn
tịch diệt
Còn Thường trụ Niết-bàn thì
được coi như tương đương với Vô dư Niết-bàn.
Nói như trên đây chỉ là nói một cách lý thuyết mà thôi. Đó là tạm dùng các danh từ của thế gian mà
bàn chuyện xuất thế gian.
Chắc là quý đạo hữu ngán quá, vì nghe chữ không thôi đã khó rồi, thế
thì tu còn khó đến đâu! Sợ lắm, không phải
sợ hư vô như ông Phạm Quỳnh nói đâu, mà là sợ khó! Xin thưa: chúng tôi có lúc nào nói rằng dễ
đâu. Nhưng chúng tôi xin thưa thêm: pháp môn niệm Phật ngay đây này, mời quý
vị thực hành cho, làm ngay cho ngày hôm nay, việc đó quả là không đến nỗi khó.
Niết-Bàn là mục đích tu hành của
mọi người tu đạo Phật.
Khi người tu pháp môn Tịnh độ được vãng sanh cõi Cực Lạc thì lên đó rồi
phải tu hành học hỏi thêm để rồi chứng
Niết-bàn chư không phải ngồi yên ở đó.
Đối với Phật giáo nguyên thủy thì Niết-bàn chính là cắt đứt dòng luân
hồi và đi vào một thể tồn tại khác. Đó là tận diệt gốc rễ của nghiệp bất thiện
là tham, sân, si. Đó là sự ngưng chịu sự
tác động của luật nhân duyên, hết thành, trụ, dị, diệt.
Đối với Phật giáo Bắc tông thì Niết-bàn là sự thống nhất với cái bản
thể của vũ trụ, cái nhất thể tuyệt đối, cái Pháp tánh. Chứng Niết-Bàn là an trụ
trong cái tuyệt đối, sự an lạc trong trạng thái đó, sự giải thoát khỏi mọi ảo
giác, mọi khổ đau.
Không coi Niết-bàn là hư vô, kinh sách coi Niết-bàn như “một ngọn lửa
đã tắt”. Ngọn lửa tắt không có nghĩa là nó hoại diệt, nó trở nên vô hình nhưng
nó sang một trạng thái tồn tại khác. Lửa phát sinh từ hư không và trở về với hư
không, Niết-bàn là tình trạng của tâm thức khi nó về nơi không có sự sinh diệt.
Nó chẳng phải là một nơi chốn!
Nói nhiều cũng không tả hết được vì lý do đơn giản là: Niết-bàn là một
dạng siêu việt, xuất thế gian, chỉ có những hành giả nào đã chứng mới “biết” được
mà thôi.
Nếu đi sâu vào lý thuyết của các tông phái thì sẽ thấy nhiều ý kiến,
nhiều lập trường. Chúng tôi xin thú thật là không đủ sức để nghiên cứu vấn đề ấy.
Để kết thúc, chúng tôi xin chép ra mấy câu ngắn gọn sau đây: Niết-Bàn không phải là một nơi chốn, đó là một
trạng thái của tâm khi hành giả thực hiện được ít ra ba điều này:
một là diệt xong tham sân si
(phương diện luân lý),
hai là dẹp xong cái “ngã”
(phương diện tâm lý),
ba là ra khỏi vòng sanh tử luân hồi (phương diện siêu hình). □
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét