MỸ THUẬT PHẬT GIÁO
GS Trần Kiêm Đạt
(ĐH Đông Phương – California – USA)
-o0o-
1 - KIẾN TRÚC CHÙA VIỆT NAM
Vấn đề ngữ nghĩa về "chùa"
.
Chùa cổ Báo Thiên Tự
Báo Thiên
Tự, tên đầy đủ là Sùng Khánh Báo Thiên Tự, từng là một ngôi chùa cổ kính, tráng
lệ, đồ sộ vào bậc nhất Việt Nam.
Chùa tọa lạc tại thôn Tiên Thị, huyện Thọ Xương, (xưa gọi là phường Báo Thiên),
gần hồ Lục Thuỷ (hồ Gươm), bên ngoài thành Thăng Long. Khu vực này ngày nay là
phố Nhà Chung, nơi có Nhà thờ Lớn Hà Nội, Tòa khâm sứ cũ, cùng nhiều trụ sở
Công giáo khác.
Những ngôi chùa Việt Nam
xuất hiện từ bao giờ? Cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời dứt khoát. Tất nhiên
khi đạo Phật truyền bá ở đâu thì nhiều chùa chiền xuất hiện tại đó. Song sự
thật không còn một ngôi chùa nào cổ đến thế kỷ II- III sau Công nguyên. Chùa là
kiến trúc Phật Giáo phục vụ cho nghi lễ và tu hành.
Kiến trúc chùa chịu ba ảnh hưởng khác nhau: kiến trúc Việt, kiến trúc
Trung Hoa và kiến trúc Ấn. Chùa Việt xuất phát từ danh từ "Saitya",
chữ Hán âm là "chi đề", hay "chế đề", dịch nghĩa là
"phúc tự". Nhưng cũng thường kết hợp với "Vihâra" để trở
thành một quần thể kiến trúc phức hợp. "Vihâra" chữ Hán âm là "Tì Kha La", hay "Tỵ Kha
La".
Ngài Nghĩa Tịnh trong cuốn "Cầu
Kinh Cao Tăng Truyện" có viết: Tỳ Kha La thị trú xứ nghĩa, thử vân
"tự" giai bất thị chính dịch" (Tì Kha La có nghĩa là chỗ ở, gọi
là "Tự" là dịch không chính xác).Thực ra trong nguyên nghĩa thì
"Tự" vốn không có nghĩa là Chùa (Khang Hy Tự Điển), tức là không đề
cập đến kiến trúc Phật Giáo. Điều có những tương quan đến vấn đề kiến trúc.
Nhưng "Tự" trong Hán văn có nghĩa là gì? Căn cứ theo Từ Điển Thuyết
Văn thì giải thích như sau: Tự có nghĩa là đình (nghĩa là thuộc về triều đình),
là có pháp độ (tức là khuôn phép của nhà nước).
Phần chú thích trong "Hán
Thư" có ghi rằng: Phàm phủ đình sở trú giai vị chi "tự". (Phàm
nơi ở của cơ quan nhà nước đều gọi là"Tự"). Tài liệu khai triển thêm
rằng: Theo chế độ quan chức thời nhà Hán ở Trung Hoa thì có Cửu Khanh; đến đời
nhà Ngụy, gọi nơi làm việc của Cửu Khanh là "tự"; cho nên được đổi
tên là Cửu Tự. Những đời sau, cứ theo đó để dùng đến danh từ này. Theo những
giải thích trên thì "Tự" có nghĩa là cơ quan của nhà nước. Có người
đã dịch lầm "quan tự" là "chùa công". Cửu Tự theo nguyên
nghĩa là "chín bộ" trong triều đình. Đến đời Hán Minh Đế, có nhà sư ở
Tây Vực là Nhiếp Ma Đằng dùng ngựa trắng để chở kinh Phật đến vùng đất Lạc
Dương, vì khách là người "tứ di" cho nên được bố trí ở "Hồng Lô
Tự" (nhà khách của cơ quan ngoại giao).
Bạch Mã Tự
Về sau, có dựng lên một công trình kiến trúc khác cho nhà sư. Nhân việc
ngựa trắng chở kinh mà đặt tên là Bạch Mã, vì đã từng ở Hồng Lô Tự nên gọi là
Bạch Mã Tự. Từ đó về sau, "Tự" có nghĩa là "Phù đồ", để chỉ
nơi tu hành của nhà sư. Xem như vậy, Saitya (Chi đề) là nơi thờ Phật, tụng
kinh, thuyết pháp. Vihâra (Tăng Phòng) là nơi cư trú của chư tăng. "Chi
đề" vốn chỉ là một kiến trúc hình ống phía sau tròn, có một
"Stupa" hay một tượng Phật, hay cả hai làm đối tượng cúng dâng, tụng
niệm. Chư tăng vừa đi vòng quanh biểu tượng Phật, vừa tụng niệm hay ngồi trước
biểu tượng Phật. Vốn là hai kiến trúc riêng biệt, nhưng ngay tại Ấn Độ đã xuất
hiện sự hỗn hợp hai kiến trúc làm thành một và gọi là Saitya hay Vihâra. Thông
thường, tại Ấn Độ hay Trung Hoa, kiến trúc nầy hình tứ giác; các tăng phòng nhỏ
được kiến tạo chung quanh; giữa lànơi tiến hành tụng niệm thuyết pháp tập thể
có biểu tượng Phật (Theo Nguyễn Duy Hinh).
Kiến trúc tháp
Còn một kiến trúc Phật Giáo khác cũng không kém phần quan trọng là Tháp
(Stupa). Đó là những biểu tượng Phật, mộ thờ chư tăng, không có kiểu dáng kiến
trúc nhà cửa. Theo Hán Văn thì Stupa được dịch là "Ty Đô ba" hay
"Túy Đô Ba", "Tháp Bà" sau đó được rút gọn là
"Tháp". Có khi Tháp cũng được gọi là "Phù đồ". Tóm lại, ba
kiến trúc Phật Giáo cơ bản là Saitya (chi đề), Vihâra(Tự) và Stupa (Tháp) đã
tồn tại ở Việt Nam
dưới nhiều dạng thức: chùa hang, chùa, tháp. Những ngôi chùa Việt Nam, tùy từng
thời và từng vùng, có những biến đổi riêng biệt.
Các nhà khảo cổ học trong quá trình khai quật các nền móng kiến trúc
Phật Giáo đã nhận ra rằng: Ở mỗi thời đại cụ thể, ngôi chùa có những vị trí
trung tâm khác nhau; những kiểu thức kiến trúc cũng khác nhau.
- 10 thế kỷ đầu Công nguyên: Ngọn tháp được coi là trung tâm của chùa,
thì các công trình khác được liên kết với nhau, tạo nên một hình thái kiến trúc
bao quanh ngôi tháp.
Tháp cổ Bình Sơn
Đời Lý, Trần: Lúc này, Phật điện được mở rộng hơn, thờ những ngôi Tam
bảo là chính, những ngọn tháp không còn được đặt ở vị trí trung tâm, mà xây
trước chùa hay hai bên chùa. Hình thái kiến trúc Phật Giáo trong giai đoạn này
chủ yếu là tam cấp, với độ cao khác nhau. Lại có ý kiến cho rằng: Cuối đời
Trần, đã xuất hiện dạng chùa "Chi Đề".
Một ngôi chùa đời Lê
Đời Lê: Trong quá trình phục hưng văn hóa Phật Giáo, các hình thái kiến
trúc trở nên đa dạng và phức tạp. Những hình thái kiến trục dạng chữ
"tam", chữ "công" (nội công, ngoại quốc),
chữ"đinh" kiến tạo tùy khả năng và vị thế từng nơi.
Đời Nguyễn: Phật Giáo có thêm nhiều thiền phái khác, chùa chiền lại được
kiến tạo giản dị hơn. Theo những số liệu thông kê của hơn 300 ngôi chùa chung
quanh Hà Nội, có trên 80% ngôi chùa làm theo dạng chữ "đinh".
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét