Trang

Thứ Bảy, 10 tháng 5, 2014

40. TĂNG - GIÀ

BƯỚC VÀO CỬA PHẬT – Bài 40
Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú
40. TĂNG – GIÀ
Đến chùa, chúng ta thường nghe nói đến Tam Bảo, tức là ba thứ quý.  Đó là Phật, Pháp và Tăng.  Phật là đấng giác ngộ, tự giác, giác tha, giác hành viên mãn.  Trong nhiều trường hợp, nói Phật là có ý nói đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni.  Chữ pháp nghĩa rất rộng, nhưng khi viết với chữ P hoa thì Pháp nghĩa là những lời dạy của đức Phật Thích-Ca.  Tăng là chữ mà ta nghe nói luôn nhưng chữ này nghĩa khá rộng.
Thoạt nghe, chúng ta nghĩ ngay đến nghĩa tăng là nhà sư, tỳ-kheo ... dùng trong những danh từ như tăng, ni, chư tăng ni, tăng lữ, tăng phòng, cúng dàng trai tăng. Tăng là do chữ tăng-già nói ngắn. Tăng-già lại do chữ Phạn samgha phiên âm mà ra. Tăng-già là đoàn thể hiệp lại tất cả các nhà sư có thọ cụ túc giới [nghĩa là giới đầy đủ. Tăng giữ 250 điều, ni giữ 348 điều], giữ gìn tịnh hạnh, ít nhất ba vị sư hòa hiệp tại một chỗ mà tu thì mới gọi là tăng.  Chữ Tăng-già được dịch là Hòa, Chúng, Hòa hợp chúng, Hòa hợp tăng. Trong danh từ “Phật Pháp Tăng” thì chữ Tăng  là để chỉ sự tập hợp chứ không chỉ cá nhân.
 Coi tiểu sử đức Phật Thích-Ca, ta thấy rằng sau khi thành Phật dưới gốc cây bồ-đề, ngài thốt lên những lời vui mừng và nhịn ăn luôn nhiều ngày để tận hưởng niềm an lạc trong Niết-bàn.  Ngày thứ  50, có hai thương gia đi qua, họ cúng dường ngài bột khô và mật ong và xin quy y Phật, Pháp. Sở dĩ lúc đó chỉ có Nhị Bảo vì ngài chưa nhận ai làm môn đồ cả.  Hai người này, tên là Tapassu và Bhallika, là hai cư sĩ đầu tiên.  Họ xin Phật một thứ gì để chiêm bái; Phật rứt mấy sợi tóc mà cho họ (nay thờ ở chùa Shve Dagon, tại thủ đô nước Miến Điện).
Đức Phật chưa muốn đem giáo pháp của ngài ra quảng bá, nhưng do trời Phạm thiên thỉnh cầu, ngài quyết định hoằng pháp.  Ngài nghĩ đến hai đạo sĩ trước kia đã dạy thiền cho ngài, nhưng nhờ thần thông ngài biết cả hai đã qua đời.  Ngài nghĩ đến năm người cùng tu với ngài là nhóm ông Kiều-Trần-Như.  Ngài bèn đi đến Vườn Nai ở thành Ba-La-Nại và thuyết pháp cho họ nghe.  Bài pháp đầu tiên này ghi trong kinh Chuyển pháp luân (nghĩa là Quay bánh xe Pháp), nội dung là Tứ diệu đế.
Năm người được khai ngộ: ông Kiều-Trần -Như chứng quả tu- đà- hoàn, bốn ông kia sau cũng chứng quả tu-đà-hoàn. [ Sau nữa, khi nghe kinh Vô ngã tướng, cả năm mới đắc quả a-la-hán.  Theo thứ tự từ thấp lên cao, tứ quả là: tu-đà-hoàn, tư-đà-hàm, a- na-hàm, a-la-hán]. 
Như vậy, ngoài 2 cư sĩ, đức Phật có 5 vị tu-đà-hoàn.  Rồi ngài thu nhận thêm một đệ tư, đó là ông Da-Xá, ông này con nhà giàu nhưng nhàm chán thế gian, gặp Phật, nghe Pháp rồi quy y Tam Bảo.  Cả cha, mẹ và vợ ông cũng xin quy y, đều là cư sĩ.  54 người bạn của ông Da-Xá cũng theo gương và như ông Da-Xá, tất cả đều trở thành a-la-hán. Vậy vào lúc này, Giáo Hội đã có 60 a-la-hán, 5 cư sĩ (3 nam, 2 nữ).  Đức Phật khuyên các vị tăng đi hoằng pháp khắp nơi, còn ngài thì đi một mình.
Giáo Hội mỗi ngày một đông thêm, càng đông thì càng nhiều vấn đề, mỗi khi có một việc xẩy ra, đức Phật lại chế ra một giới.  Trong cuộc kết tập lần thứ nhất do ngài Ca-Diếp chủ tọa, ngài Ưu-Bà-Ly đọc toàn thể các giới luật, sau này trở thành một trong Tam tạng (Kinh, Luật, Luận).  Trong số các đệ tử, nhiều vị đắc quả cao là quả a-la-hán.  Đó là quả cao nhất trong tứ quả của thanh văn (nghĩa đen là các người nhờ “nghe pháp”của Phật mà chứng quả).  Người ta căn cứ vào 3 nghĩa sau này để giải nghĩa chữ  a-la-hán, gọi ngắn là la-hán:
1/ sát tặc, đã giết hết giặc phiền não. 
2/ ứng cúng, xứng đáng được thiên và nhân cúng dường vì đã dứt hết các lỗi lầm. 
3/ bất sanh, chẳng còn sanh ra ở cõi thế gian nữa. 
Khi nghe kể các cuộc kết tập, ta thấy kể 500 vị la-hán ở kỳ I, 700 vị ở kỳ II và 1000 vị ở kỳ III ... Ngoài ra ta còn nghe kể 16 vị la-hán đi ra các nước ngoài để quảng bá đạo Phật (nhiều chùa xưa có vẽ hình thập lục la-hán, có nơi nói tới 18 vị!).
Trong số các đệ tử của đức Phật, có 10 vị gọi là thập đại đệ tử kể sau đây:
1.       Ngài Xá-Lỵ-Phất, trí huệ đệ nhất
2.       Ngài Mục-Kiền-Liên, thần thông đệ nhất
3.       Ngài Ma-Ha Ca-Diếp, đầu đà đệ nhất
4.       Ngài A-Na-Luật, thiên nhãn đệ nhất
5.       Ngài Tu-Bồ-Đề, giải không đệ nhất
6.       Ngài Phú-Lâu-Na, thuyết pháp đệ nhất
7.       Ngài Ca-Chiên-Diên, luận nghĩa đệ nhất
8.       Ngài Ưu-Bà-Ly, trì luật đệ nhất
9.       Ngài La-Hầu-La, mật hạnh đệ nhất
10.     Ngài A-Nan-Đà, đa văn đệ nhất.
Đã nói đến Tăng-già, không thể bỏ quên thế nào là Lục Hòa Kính gọi ngắn là Lục Hòa và Tăng-già còn có tên là Lục hòa tăng.  Đó là sáu điều mà tăng, ni phải tuân theo khi sinh hoạt trong đoàn thể.  Chữ hòa và chữ kính được nhấn mạnh, cho nên khi giải thích sáu điều, lúc nào cũng phải nêu lên hai ý hòa và kính.
Lục hòa là những gì?  Đó là:
1/ Giới hòa ( Đồng giới hòa kính hay Giới hòa đồng tu): vì cùng tuân thủ giới luật của nhà Phật, nên phải hòa thuận với nhau, kính trọng lẫn nhau.
2/ Kiến hòa (Đồng kiến hòa kính hay Kiến hòa đồng giải): vì cùng thờ kính Phật, cùng học và hành giáo pháp của đức Phật nên kiến thức, hiểu biết hòa nhau.
3/ Lợi hòa (Đồng lợi hòa kính hay Lợi hòa đồng quân): chung hưởng đồ cúng dường của bá tánh một cách hòa thuận, ái kính.
4/ Thân hòa (Thân từ hòa kính hay Thân hòa đồng trụ): vì ở chung một nơi mà tu học, đông người thiếu chỗ, cho nên phải từ hòa, kính nhường nhau trong mọi hành động.
5/ Khẩu hòa (Khẩu từ hòa kính hay Khẩu hòa vô tranh): nơi tu học chật chội, dễ xẩy ra va chạm, phải nhường nhịn nhau lời ăn tiếng nói để giữ không khí an hòa, ái kính trong tự viện.
6/ Ý hòa (Ý từ hòa kính hay Ý hòa đồng duyệt): đã sống chung trong chùa hòa kính, lời nói giữ gìn, lại phải hòa kính về ý tứ nữa, chia sẻ vui buồn, không làm mất lòng nhau.
Không những là giữ lục hòa với các sư trong chùa mình mà còn phải giữ lục hòa đối với các sư chùa khác nữa, có như thế mới là hiểu nghĩa chữ  Giáo Hội.
Lục hòa coi như chất keo sơn làm cho sư đoàn kết trong Giáo Hội được vững vàng, làm cho lòng tương thân tương kính giữa các vị xuất gia ngày càng gia tăng, làm cho uy tín của giáo hội lên cao vì bá tánh nhìn thấy giáo hội là một khối thuần nhất sinh hoạt  đúng theo giới luật , đồng thời rèn cho tu sĩ biết tự chế, dẹp dần cái ngã của mình, từng giờ từng phút áp dụng lý thuyết vào thực hành, làm cho Giáo Hội không những lớn lên mà còn mạnh thêm.
Ước mong rằng tinh thần lục hoà luôn luôn hiện hữu và tăng trưởng dù rằng đức Từ Phụ đã nhập Niết-bàn từ hơn 25 thế kỷ nay!
Đôi khi chúng tôi nghe thấy chỗ này chỗ khác phàn nàn về vài người xuất gia không giữ đúng giới luật làm cho Phật tử chán ngán, chẳng muốn đến chùa.  Xin thưa rằng tình trạng này không hiếm, ngay trong lịch sử nước ta cũng đã có lần ghi rằng “số tăng sĩ đông hơn phu dịch” để nói lên sự kiện “trốn việc quan đi ở chùa”. 
Đạo Phật khuyên ta rằng:  “Y pháp, bất y nhân” !






GHI CHÚ.
● Theo Từ điển Phật học Hán Việt: Tăng Bảo = Thánh chúng Tam thừa tức Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, đã phát chân vô lậu trí, trở thành phúc điền được đời kính trọng quy theo.  Nếu cần nêu Pháp Bảo thì có thể chọn cả những vị phát tâm tu đạo trở lên ... Tăng-già = chỉ người tín thụ giáo lý của đức Phật tu hành, tuân theo đạo đó mà nhập thánh đắc quả.  Cũng chỉ người xuất gia cắt tóc, theo học đạo Phật đà... hoặc còn chỉ đoàn thể tín thụ Phật pháp, tu hành Phật đạo ... Ngoài ra, Tăng là tiếng gọi chung cho tì-khiêu và tì-khiêu-ni, sau này gồm cả sa-di và sa-di-ni.  Tì-khiêu là đại tăng, sa-di là tiểu tăng ...
● Theo the Shambala Dictionary. of Buddhism & Zen: In a narrower sense, the samgha (sangha) consists of monks (bhikshu), nuns (bhikshunì) and novices (shrāmanera). In wider sense, the sangha also includes lay followers (upāsaka).□

---ooo0ooo---

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét