Nghệ thuật thiền họa và vườn cảnh
2. Thiền họa
Cư sĩ Trần Kiêm Đạt
(Hình minh họa : Tranh thiền)
---o0o---
Nghệ thuật của môn
phái Thiền (Zen) của Nhật dù Thiền Lâm Tế hay Thiền Tào Động, đều có chú
trọng đến phần thiền họa và vườn cảnh. Nghệ thuật Thiền đặt nặng về những loại
chân dung, những họa phẩm bằng mực đơn sơ, thuật viết chữ đẹp (thư
pháp) và những công cụ trực tiếp hỗ trợ cho việc hành Thiền, kể
luôn cả nghệ thuật tạo những vườn cảnh cát đá nổi tiếng.
Sự chọn lựa
những chủ đề của những thiền sư và sự nhấn mạnh về trục giác
cũng như hiểu biết trực tiếp, dẫn đến một loạt tác phẩm khác
với những chủ đề của những tông phái khác nhau. Tuy vậy, mục
tiêu chính của việc tu tập vẫn giữ sự hòa hợp giữa
thiền họa, thư pháp với tu tập Thiền.
Theo thiền
sư Eido Tai Shimano, cần phải phân biệt thư pháp (Calligraphy)
và thư pháp Thiền (tiếng Nhật gọi là bokukesi) của các thiền sư. Về
cơ bản, cả hai đều thực hiện trên giấy trắng mực đen, có thêm triện
đỏ. Cả hai đều có bố cục tốt và cũng đều đẹp. Thế nhưng, nói chung,
nghệ thuật của các nhà thư pháp không sống động; trái lại
bokukesi mang sức sống khác thường, vì nó được sáng tạo từ
công năng "tam muội" (samàdhi) của nhãn quan các Thiền sư.
Không chỉ thế,
nó còn có vẻ đẹp kinh người và mị lực kinh hồn; do đó nó
trường tồn qua nhiều thế kỷ. (trích Ngôn ngữ Thiên, thư pháp Thiền). Thư
pháp Thiền thường liên hệ với ngôn ngữ Thiền. Ngôn ngữ Thiền, khi chúng ta đọc
chúng và cố hiểu chúng bằng tri thức, dường như rất thường là chẳng có ý
nghĩa gì. Mặc dù đôi khi chúng được biểu
hiện một cách có luận lý, chúng cũng có thể được diễn đạt bằng
nghịch lý. các Thiền sư đương nhiên có lý do xác đáng để diễn tả các
thông điệp của mình bằng cách này.
Hãy tìm hiểu một ví
dụ. Ngài Hoàng Bá (Obaku- 850) nói: "Khắp cả Trung Hoa, chẳng có một
Thiền sư". Thoạt nghe, lời nói có vẻ xấc xược, vì thời đó có
nhiều Thiền sư danh tiếng ở Trung Hoa. Thế nhưng, ngài Hoàng Bá chỉ
nhấn mạnh: Không có ai có thể dạy được Thiền, chỉ do cá nhân
đạt ngộ. Dùng ngôn ngữ nghịch lý nầy để nhấn mạnh diện đó. Những
phương diện khác cũng thế. Thay vì hội họa và kiến trúc có một sức mạnh về
ngoại diện, nhưng những tác phẩm mang phong cách Thiền đều mang một chức năng
khởi động sự phát triển tâm linh của người tham dự. Những đề mục
thư pháp Thiền thông thường dựa trên những sự gợi ý, những
lời hàm súc, ngắn gọn, có tính phản kích lại, đòi hỏi người tu tập
phải đóng vai trò quan trọng hơn trong việc tìm kiếm sự chứng ngộ của bản
thân.
Trong thiền
đường, cách bài trí cũng mang những giá trị nhất định.
Sự quan trọng tại đây là những bức chân dung của các Tổ sư Thiền,
những ngôi chùa nổi bật mang hình tượng thuộc về điêu
khắc lẫn hội họa. Chân dung của những vị thiền sư (Chinzo) được dùng
như là một biểu tượng của sự giao cảm giữa thầy và trò. Khi con người đi
đến sự giác ngộ, bức chân dung của vị Tổ sư dùng để minh chứng cụ thể sự
liên hệ bằng trực giác giữa hai người. Một trong những bức chân dung quan
trọng nhất là của ngài Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) vị khai sáng Thiền Tông
Trung Quốc mà cuộc đời của Ngài được viết bằng những huyền thoại.
Để phù hợp với khuynh hướng châm biếm của phái Thiền, ngài
Bồ Đề Đạt Ma thường được miêu tả một cách hài hước,
một sự "đột phá" xa hơn, dựa trên những phương pháp
tu tập của Phật Giáo truyền thống.
Trong thiền họa, kỹ
thuật dùng mực Tàu một cách sinh động trên giấy trắng nhấn mạnh
sự quan trọng về sự hiểu biết nền tảng của sự tu tập Thiền
đạo. Mực Tàu vốn được dùng để họa tại Trung Hoa trước kia, đặc biệt
là vào đời Nguyên; tuy vậy, khi ứng dụng trong thiền họa Nhật,
đã được thể hiện những đường nét tự nhiên, được chút hài hước, vốn
là truyền thống hội họa Nhật.
Trong cuốn The Method
of Zen, vị học giả lỗi lạc Tây Phương về Thiền học R. Herrigel đã viết: Đặc
tính của Thiền họa là không gian. Nhưng không gian Thiền họa khong phải là thứ
không gian của người Tây Phương, với những chiều khác nhau, thứ môi
trường nhất loạt, trong đó sự vật đứng, môi trường chung quanh sự
vật và cô lập chúng với nhau. Thiền họa không có không gian chết, có thể
bị dời chỗ, hay bị giới hạn trong những tương quan có thể thấy được giữa các vị
trí trái, phải, trên, dưới. Không gian trong Thiền họa mãi mãi bất động nhưng
lại đang động; nó dường như đang sống và đang thở; nó không có hình
và trống trải, nhưng lại là nguồn gốc của mọi hình dáng. Nó không
tên, nhưng lại là lý do làm cho mọi sự vật có một cái tên.
Nhờ nó, mọi vật có một giá trị tuyệt đối, đều quan trọng
ngang nhau, ý nghĩa ngang nhau, đều là những đại diện của dòng sóng phổ
cập đang tuôn chảy chung quanh chúng. Điều này cũng giải thích ý nghĩa sâu xa
trong Thiền họa, của sự "để vật thể ra ngoài". Một bức Thiền
họa bao hàm những cái "không được gợi đến" và
"không thể gợi đến". Họa sĩ Thiền không kinh hoàng
trước khoảng trống (Horror vacui). Trong khoảng trống vốn là sự vật sống
động hơn tất cả.
Thiền sư Okbong
Sunim người Triều Tiên cũng là một danh họa đã viết: "Nếu bạn
cầm cọ lên, bạn phải vẽ, phải sơn đi sửa lại. Khi gặp công
việc khó, bạn khắc phục với cố gắng không ngừng. Sự cố gắng là yếu
tố quan trọng trong thiền họa. Phải luyện tâm. Hãy để cho tâm yên tĩnh, chăm
chú. Bạn không thể vẽ, nếu tâm của bạn cứ lăng xăng, lo lắng. Tâm
cần yên tĩnh, lắng đọng. Bạn nên lắng tâm ngồi thiền trong giây phút
trước khi bạn bắt đầu vẽ. Nếu tâm yên định, ta không có lý do gì mà không
vẽ được cả. Tất cả đều do tâm mà ra. Tâm là tất cả, cho nên hội họa
cũng là tâm.
Nếu tâm lăng xăng,
không lắng đọng, thì tranh vẽ cũng lăng xăng, lộn xộn. "Vạn pháp tụ
về một pháp" nằm trong ý nghĩa đó. Phật Giáo thiên về những gì
có vẻ tự nhiên, về sự tỉnh thức trở về với cái tâm chân chánh của
mình. Hội họa cũng là cách để biểu lộ nội tâm, cảm xúc của mình. Khi
tạo ra được một tác phẩm nghệ thuật từ sự tĩnh lặng,
người xem cũng thấy như hòa lẫn vào sự tĩnh lặng
đó..."Thiền họa liên kết với một truyền thống vĩ đại - tranh phong cảnh
của Trung Hoa trước khi Phật Giáo du nhập. Ở đấy, những nét đặc biệt
của Thiền họa đã được kết tinh lại, hay ít nhất cũng đã hình dung trước. Điều này
có thể là do ảnh hưởng sâu xa của Lão Giáo. Khi Phật Giáo bắt đầu
truyền từ Ấn Độ vào Trung Hoa, với những biến đổi sâu sắc trong tư
duy của họ, đã trải qua những biến đổi chậm chạp nhưng sâu sắc là
nhờ Lão Giáo. Thiền có lẽ là "đóa hoa huyền diệu nhất và đẹp
nhất trong thiên tài sáng tạo của người Trung Hoa" (E.
Herrigel). Những họa sĩ Thiền cho rằng bắt nguồn từ những tác phẩm
"tiền Phật Giáo Trung Hoa" tức là nói đến sự un đúc do tinh
thần Lão Giáo. Trong Đạo giáo của Lão Tử, chúng ta tìm thấy nhiều
yếu tố quan trọng trong nghệ thuật Thiền.
Câu chuyện sau đây
trong Giai Thoại Thiền nói lên ý nghĩa của sự tu luyện trong hội hoạ: Một
lần, trong một ngôi chùa, có vị Sa di muốn trở thành họa sĩ như sư phụ
mình là một họa sư danh tiếng, nên cầu xin thầy học về họa. Thầy
bảo chọn đề tài. Vị Sa di chọn trúc và xin thầy dạy phương pháp họa
về trúc. Thầy bảo: "Bây giờ khoan vẽ, mà quan sát trúc trong một
thời gian đã". Vị Sa di vâng lời. Ngày lại ngày, Sa di ngắm cành trúc
trước cửa sổ phòng mình. Cứ mỗi lần vị Sa di xin thầy chỉ có phương pháp vẽ
trúc, thì thầyluôn luôn đáp lại lời bảo đó và khuyên phải chuyên cần quan
sát trúc. Sa di vâng lời và tiếp tục ngắm trúc qua nhiều dạng
khác nhau. Ngắm từ lúc trúc còn là những mầm non, khi còn là những cành lá
nhỏ, sau trở thành cây trúc lớn vào mùa Hạ, mùa Đông,
trong sương bạc, trong những tiếng chim ca. Vị thầy nhận ra người
học trò thực hành theo lời dạy của mình một cách tốt đẹp. Sau 7 năm
kể từ khi vị Sa di bắt đầu quan sát trúc, thầy bèn bảo: "Bây giờ con
hãy cầm bút, mực và vẽ về trúc". Vị Sa di vâng lời. Kết quả là
không ai có thể vẽ trúc đẹp hơn vị Sa di đó. Từ đó, vị Sa di trở thành
họa sĩ rất nổi tiếng.
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét