BỆNH GOUT
Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia
-o0o-
Bệnh gút, hay còn gọi theo cách Hán Việt là thống phong, là một loại viêm khớp, thường gặp ở nam giới. Phần lớn
các bệnh nhân gút được chẩn đoán là nam giới tuổi trung niên có cơn gút cấp
trên một tiền sử bệnh tiềm ẩn và phần lớn bệnh nhân có uống rượu thường xuyên.
Nguyên nhân sâu xa của bệnh gút nằm ở những
trục trặc về gen. Cho đến nay, giới khoa học đã xác định được 5 gen liên quan
đến bệnh gút: HGPRT1, Glc6-photphat tại gan và 3 gen PRPPs1,2,3 có trong tinh
hoàn.Trong bệnh gút, viêm xảy ra do các tinh
thể nhỏ của một chất gọi là Acid uric lắng đọng trong khớp, đó là tinh thế muối
Urat. Có nhiều nguy cơ lắng đọng muối Urat nếu nồng độ Acid uric cao trong cơ
thể. Tuy nhiên, hội chứng tăng Acid uric và bệnh gút là hai vấn đề cần phần
biệt, cho dù có liên hệ chặt chẽ với nhau. Acid uric là một chất thải hình
thành bởi sự phá hủy tự nhiên chất purin trong cơ thể (chất purin có trong các
tế bào của cơ thể). Thói quen ăn nhậu, thói quen dinh dưỡng không phù hợp không
chỉ làm tăng hàm lượng purin mà còn là nguồn chuyển hóa dở dang tạo ra vô số
các gốc tự do, chu chuyển lang thang trong cơ thể và sẵn sàng gắn vào bất kỳ
gen nào có nguy cơ biến đổi.
Gout là một bệnh lý rối loạn chuyển hóa
purin làm tăng Acid uric máu dẫn đến ứ đọng tinh thể muối Urát tại khớp gây
viêm khớp. Biểu hiện lâm sàng đặc trưng thường là sưng tấy, nóng, đỏ, đau dữ dội
tại một hay nhiều khớp. Đa phần bệnh nhân khi điều trị dứt được cơn đau đều tự
cho là đã khỏi bệnh mà không biết rằng bệnh vẫn đang âm thầm tiến triển bên
trong. Nếu không được điều trị tiếp tục và triệt để, các cơn đau sẽ xuất hiện
trở lại ngày càng nhiều và nặng hơn. Ở giai đoạn muộn hơn, có thể xuất hiện
những u, cục gọi là hạt tophi (tiếng Anh là topus) xung quanh khớp, ảnh hưởng
rất lớn đến thẩm mỹ, có nguy cơ gây biến dạng khớp và có thể dẫn đến tàn phế.
Nguy cơ mắc bệnh
Đàn ông có nhiều khả năng mắc bệnh gút hơn
phụ nữ, do cac gen bị trục trặc thường có ở nam. Tuy nhiên, phụ nữ có nam tính
mạnh cũng vẫn bị mắc gút như thường. Các yếu tố có nguy cơ khác bao gồm béo
phì, tiền sử gia đình, bệnh thận, huyết áp cao, hội chứng chuyển hóa, nghiện
rượu và sử dụng của một số thuốc (Aspirin, thuốc lợi tiểu).
Triệu chứng
Giai đoạn đầu tiên thường là không có bất
kỳ triệu chứng nào ngoại trừ nồng độ acid uric trong máu cao. Các triệu chứng
đầu tiên thường gặp là ngón cái sưng đỏ và đau nhức. Thường thì cơn đau sẽ xảy
đến sau một tác động vật lý nào đó tại chỗ bị đau, hoặc sau một sự kiện về dinh
dưỡng (ăn nhậu, tiệc tùng). Đau thường xuất hiện ở các khớp bao gồm các khớp
mắt cá chân, bàn chân, đầu gối, cổ tay, khuỷu tay và khớp nhỏ của bàn tay, có
khi ở những khớp nhỏ có ở khắp nơi trên cơ thể. Các tinh thể muối urate gây
viêm khớp, dẫn đến sưng đỏ, nóng, đau, và cứng khớp. Hầu hết các bệnh nhân có
các cơn đau tái phát trong vòng vài năm, tuỳ theo thể trạng và lối sống, mà
thường là từ 1-3 năm. Nếu không chữa trị, trong giai đoạn sau, các cơn đau khớp
cấp sẽ gây tổn thương nhiều khớp, làm tổn thương khớp, mất vận động, đau mãn
tính và hình thành cục tophi (do tinh thể Urat lắng đọng trong mô mềm).
Chẩn đoán
Gút thường được chẩn đoán lâm sàng bằng
cách chọc hút dịch khớp và tìm tinh thể muối Urat dưới kính hiển vi. Cách thông
thường để nhận biết đối với bệnh nhân xuất hiện cơn gút cấp đầu tiên là cho
uống Colchicine. Sau một vài giờ, thuốc có tác dụng giảm đau, thì có thể đó là
gút. Trong cơn gút cấp, nồng độ Acid uric máu có thể bình thường chứ không nhất
thiết phải tăng cao. Do đó, không thể sử dụng xét nghiệm máu để loại trừ chẩn
đoán gút cấp. Tuy nhiên, có thể giám sát nồng độ Acid uric máu để theo dõi hiệu
quả của phương pháp điều trị thể hiện ở nồng độ Urat trong máu giảm.
Điều trị
Một khi đã mắc bệnh gút thì cơn gút cấp sẽ
xảy ra sớm hoặc muộn dù bạn có dùng hay không dùng thuốc. Mục tiêu trong điều
trị bệnh gút chính là giúp bệnh nhân giảm bớt đau đớn khi bị cơn gút cấp tấn
công, giúp khoảng cách giữa các cơn gút dài ra, ngăn ngừa các cơn tấn công khác
và tránh sự hình thành của sạn thận và khối u dưới da quanh khớp bị gút. Quá
trình điều trị thành công có thể giúp làm giảm các khó chịu do triệu chứng gút
gây ra cũng như giảm mức độ phá hủy về lâu dài ở những khớp xương bị gút.
Điều trị bằng thuốc tây
Sau khi chẩn đoán gút được xác định, một số
loại thuốc sẽ được chỉ định trong điều trị cơn gút cấp. Đối với hầu hết các
bệnh nhân, thuốc tốt nhất trong cơn gút cấp là thuốc chống viêm không Steroid
(NSAID). Bên cạnh đó, ta có thể sử dụng một số thuốc như colchicine (chú ý
colchicine có nhiều phản ứng phụ) dùng 2-3 lần / ngày, dùng càng sớm càng tốt.
Đôi khi, steroid được sử dụng để điều trị bệnh gút. Nếu các cơn gút cấp xảy ra
thường xuyên và nặng hơn, cần can thiệp y tế kịp thời. Một trong những phương
pháp điều trị khá phổ biến hiện nay là kết hợp giữa Y học cổ truyền và Y học
hiện đại.
Điều cần lưu ý là các bệnh nhân mạn tính,
sau khi bị mắc gút trong một thời gian dài mà không chữa khỏi, sẽ có thể kéo
theo một số bệnh khác như suy thận, gan, phù nề giữ nước. Việc sử dụng thuốc để
chữa các bệnh này một cách không có kiểm soát sẽ làm cho bệnh gút thêm nặng
hơn.
Điều trị bằng dược liệu
Để hỗ trợ điều trị bệnh gout, giảm axit
uric trong cơ thể có thể dùng một số liệu pháp từ thiên nhiên an toàn và hiệu
quả như:
Trái anh đào
Trải qua nhiều thập kỉ, trái anh đào đã thu
hút được sự quan tâm đáng kể từ các bệnh nhân gout cho đến những nhà nghiên cứu
y học về khả năng phòng chống và điều trị bệnh gout. Các nghiên cứu thực nghiệm
được tiến hành ở người và vật khỏe mạnh đã chứng minh rằng các sản phẩm từ anh
đào giúp làm giảm hàm lượng axit uric. Các nghiên cứu khác cho thấy những sản
phẩm từ anh đào có chứa hàm lượng anthocyanins cao có đặc tính chống oxi hóa và kháng
viêm. Hơn nữa, một số nhà sản xuất anh đào đã tuyên bố rằng các sản phẩm làm từ
anh đào có khả năng giảm thiểu các cơn đau do gout gây ra và một số bệnh nhân đã bắt đầu sử
dụng anh đào như một liệu pháp chính để phòng chống và đối phố với các cơn gout. Ngoài ra, các cuộc nghiên cứu cũng cho
thấy rằng anh đào giúp gia tăng đáng kể tác dụng của allopurinol trong việc
ngăn chặn các cuộc tấn công của bệnh gout.
Cây móng quỷ
Cây móng quỷ thuộc họ Pedaliaceae, được
biết đến với các tên gọi khác như cây mỏ neo, cây nhện gỗ hoặc cây harpago. Một
số nghiên cứu lâm sàng đã chỉ ra rằng cây móng quỷ có hiệu quả trong việc chữa
trị các bệnh về viêm khớp và thấp khớp. Harpagoside (thành phần hóa học có trong
cây móng quỷ) có tác dụng giảm đau ngoại vi. Nghiên cứu trên con người cho thấy
hiệu quả giảm đau trong việc sử dụng chiết xuất từ cây móng quỷ có chứa
harpagoside lên các cơn đau ở đầu gối, khớp hông và vùng lưng dưới. Mặc dù chưa có một cơ chế hoạt động cụ
thể cho công dụng này, tuy nhiên nó được cho là gắn liền với đặc tính kháng
viêm sẵn có của loại chiết xuất này.
Với công dụng làm giảm đường huyết đã được
chứng minh, việc sử dụng cây móng quỷ cần được cân nhắc kĩ lưỡng đối với bệnh
nhân tiểu đường đang sử dụng các loại thuốc hạ đường huyết khác, vì nó có thể
dẫn đến việc sử dụng quá liều, gây nguy hiểm cho bệnh nhân. Cây móng quỷ có khả
năng làm giảm huyết áp ở động mạch và giảm nhịp tim ở động vật. Tác dụng bảo vệ
giúp chống lại triệu chứng rối loạn nhịp tim cũng được ghi nhận ở loài cây này.
Cũng vì vậy, chiết xuất cây móng quỷ có thể kết hợp với một số thuốc khác gây
ảnh hưởng lên nhịp tim, huyết áp. Tuy nhiên, liều lượng đưa vào cần phải được
cân nhắc và có thể xảy ra một số phản ứng phụ trong quá trình sử dụng. Cây móng
quỷ cũng có tác dụng làm loãng máu, vì vậy cẩn chú ý khi sử dụng chung với các
loại thuốc có khả năng làm loãng máu khác.
Bệnh nhân mắc bệnh viêm loét tá tràng không
nên sử dụng cây móng quỷ, do ảnh hưởng của nó đối với độ pH ở dạ dày. Do có khả
năng giục sinh, chiết xuất cây móng quỷ được chống chỉ định trong thời kì mang
thai ở phụ nữ.
Chiết xuất của cây móng quỷ có thể hấp thu
dưới nhiều hình thức, vì vậy mà liều lượng thường thay đổi theo mỗi dạng khác
nhau, tùy thuộc vào hàm lượng của các thành phần khác. Sau đây là những liều
lượng sử dụng đã được kiểm nghiệm lâm sàng và khuyến cáo sử dụng. Rễ khô: Hòa
tan 0.5-1.0g trong nước rồi cho bệnh nhân uống để kích thích dạ dày và quá
trình tiêu hóa. Bột rễ khô (dạng viên nén hoặc viên nang): 1800–2400 mg
(harpogoside 50–100 mg), dùng điều trị bệnh viêm khớp, các triệu chứng đau
cơ xương và kháng viêm. Dung dịch thô chiết xuất từ rễ: 2-9g mỗi ngày, điều trị
bệnh đau lưng dưới và viêm xương khớp.
Cỏ linh lăng
Chiết xuất ethyl acetate từ mầm cỏ linh
lăng có tác dụng chống viêm để dùng hỗ trợ điều trị các chứng rối loạn và gây
viêm. Kết quả đã được nghiên cứu đã chứng minh rằng việc bổ sung chiết xuất từ
mầm cỏ linh lăng sẽ giúp ức chế sự sản sinh các chất cytokines tiền viêm và làm
giả nguy cơ viêm cấp tính.
Giấm táo
Giấm táo có công dụng cao trong điều trị
sưng cơ và đau khớp. Để làm dịu đi các cơn mệt mỏi và đau nhức cơ khớp, cách
tốt nhất đó chính là sử dụng giấm táo khi tắm kết hợp cùng các động tác tự xoa
bóp thư giãn. Giấm táo còn có công dụng điều trị các bệnh viêm khớp. Các cặn
lắng gây choáng chỗ, làm khớp xương bị xơ cứng, giãn to và làm hư hại các khớp
xương. Các vấn đề về khớp và bệnh viêm khớp gây đau đớn, tàn tật đều là những
hậu quả đáng buồn. Các cặn lắng này sẽ được làm tan biến bằng cách uống giấm
táo mỗi ngày.
Bồ công anh
Rễ cây bồ công anh có chứa axít kynurenic,
một amino axít giúp hỗ trợ hệ tiêu hóa, điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp.
Các
đặc tính tiền sinh học của bồ công anh là do trong rễ cây có chứa chất xơ
(inulin) và sesquiterpene lactones. Nếu được thu hoạch vào mùa thu thì trong rễ
bồ công anh sẽ có lượng inulin cao nhất và lượng sesquiterpene lactones trong
rễ bồ công anh cũng có tác dụng làm dịu cơn viêm rất tốt.
Các loại thảo dược khác
Cây cần tây
Các chiết xuất từ thực vật như hạt cần tây,
lá cần tây tươi, sung sấy khô, nghệ, vỏ quế và lá cây hương thảo có tác dụng
giúp làm giảm đáng kể hàm lượng axit uric trong huyết tương và trong nước tiểu
do các chiết xuất này có tác dụng chống oxi hóa và kháng viêm nhờ có chứa các
hợp chất phenolic, các axit béo chưa bão hòa, các axit béo mạch dài và các
phytosterols.
Phòng tránh
Nếu bạn đang thừa cân hay béo phì thì việc giảm cân qua ăn uống lành mạnh và
thường xuyên hoạt động thể chất là điều rất quan trọng. Nghiên cứu cho thấy
giảm cân có thể làm giảm nồng độ acid uric và giảm xuất hiện các cơn gút cấp.
Nếu bạn nghiện rượu, bạn nên giảm hoặc ngưng hoàn toàn. Uống nhiều bia hoặc
rượu mạnh làm tăng cơ hội mắc bệnh gút. Cụ thể, việc uống rượu nhiều sẽ làm sản
sinh Acid lactic. Acid lactic sẽ tranh chấp đào thải với Acid uric, làm cho
lượng Acid uric không thể thoát ra ngoài hoặc thoát với khối lượng không đủ.
Bạn nên uống ít nhất 2-3 lít nước mỗi ngày vì nó giúp hoà tan acid uric trong
cơ thể và loại bỏ theo đường tiết niệu ra ngoài. Ăn thực phẩm có nhiều purin
(như cá cơm, cá mòi, ngỗng,...) cũng có thể gây tăng Acid uric. Những người ăn
nhiều hải sản và thịt (đặc biệt là thịt nội tạng như gan, thận, não, tim) cũng
có nguy cơ mắc bệnh gút. Ngoài ra, ở lứa tuổi 30 trở lên, nên tránh những thay
đổi đột ngột của cơ thể, như đang nóng mà tắm nước lạnh, sốc cơ thể... có thể
sẽ là tác nhân để sự chuyển hoá từ Acid uric thành muối Urat diễn ra.
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét