CÀ PHÊ SÀI GÒN XƯA
(3)
-o0o-
CÀ PHÊ TÂY
Cà phê La Pagode khách không ngồi ghế sắt ghế gỗ mà ngồi trên những
salon bọc da để phóng tầm mắt nhìn ra con đường Catinat (nay là Đồng khởi) con
đường đẹp và sang nhất của Sàigòn. Cách La Pagode độ trăm mét Nhà hàng
Continental cũng mở một không gian cà phê sang trọng đúng phong cách “Phăng –
se”. Đối diện Continental là tiệm cà phê Givral nơi nổi tiếng với những món
bánh ngọt tuyệt hảo. Tiệm tràn ngập ánh sáng bởi những khung cửa kính nhìn ra
Nhà Hát Lớn (nay là Nhà Hát TP) với một bầu trời khoáng đãng. Những nhà báo,
văn nghệ sĩ thường ghé đây uống cà phê trước khi tỏa đi khắp nơi cho công việc
riêng của họ.
Còn một quán cà phê với một phong cách phương Tây như bàn ghế, trang
trí nội thất sang trọng cũng nằm trên con đường nầy là quán cà phê Brodard. Với
một phong cách cũng gần giống với La Pagode, không gian Brodard yên tĩnh, ánh
sáng thật nhạt để khách có thể thả hồn êm ả bên tách cà phê nóng hổi quyện
hương thơm.
Có thể nói từ giai đoạn nầy người Việt Nam ở Sàigòn “thức tỉnh” trước
thị trường buôn bán cà phê mà từ lâu họ đã bỏ quên và đã để cho các chú Hoành,
chú Koón, chú Xường… tự do khai thác.
Khi qua tay người Việt quán cà phê không còn luộm thuộm những cái
‘đuôi” mì, hủ tíu, hoành thánh, xíu mại, há cảo, bánh bao… nữa mà nó thuần túy
chỉ có cà phê nhưng được chăm chút một cách tỉ mỉ hơn, biết tạo ra một không
gian tao nhã hơn, thu hút hơn…
CAFÉTÉRIA CA NHẠC
Để gần gủi hơn, thu hút khách hơn và cũng mang tính giải trí hơn, một
số nơi đã ổ chức hình thức phòng trà ca nhạc theo dạng Cafétéria.
Cafétéria rộng thoáng hơn những “Tháp ngà” La Pagode, Brodard, Givral,
Continental… nơi đây không phải chổ để trầm tư, bàn luận chuyện đời mà hoàn
toàn là chổ vui chơi giải trí.
Trên đường Bùi Viện đầu những năm 60 mọc ra một cái quán với tên là
Phòng trà Anh Vũ. Tuy là phòng trà nhưng có thiết kế một sân khấu nhỏ vừa cho
một ban nhạc bỏ túi đệm đàn cho những ca sĩ tăm tiếng được mời đến trình diễn
như Bạch Yến, Mai Hương, Duy Trác, Cao Thái… Lúc đó phòng trà Anh Vũ là điểm
hẹn của nhiều người dân Sàigòn cũng như những văn nghệ sĩ sinh sống tại đây.
Con đường chật hẹp Bùi Viện bổng đêm đêm sáng lên rực rở ánh đèn Anh Vũ, người
xe tấp nập đông vui.
Một Cafétéria khác theo cách của Anh Vũ cũng đã mọc lên bên cạnh rạp
Ciné Việt Long (trên đường Cao Thắng) với tên Phòng trà Đức Quỳnh. Ca sĩ kiêm
nhạc sĩ tóc dài Đức Quỳnh là chủ nhân của cái Cafétéria nầy. Đức Quỳnh với cây
Piano và giọng ca trầm ấm của ông và những ca sĩ Minh Hiếu – Thanh Thúy, Phương
Dung đã thu hút một số đông người yêu nhạc đêm đêm đến đây vừa giải khát vừa
giải trí một cách tao nhã.
Rồi tiếp theo là cà phê Cafétéria Jo Marcel, trên đường Hai Bà Trưng,
Đêm Màu Hồng trên đường Tự Do (nay là đường Đồng Khởi) thi nhau mọc lên đẩy
“Nền văn hóa ẩm thực” cà phê lên một tầm cao hơn, tức vừa uống cà phê vừa được
thưởng thức những ca khúc do các ca sĩ, nhạc sĩ có tiếng trình bày.
Một Phòng trà ca nhạc
khác cũng khó quên chính là phòng trà Bồng Lai nằm trên sân thượng của Nhà hàng
Kim Sơn mở cửa hàng đêm từ 9 giờ tối. Ở đây khách thường xuyên được nghe giọng
ca vàng đương thời, ấy là ca sĩ Anh Tuyết với bài hát “Anh đèn Màu”.
Cũng như ca sĩ Cao Thái
nổi tiếng với bài “Mexico”, ca sĩ Anh Tuyết mỗi lần trình diển “Anh đèn Màu” là
bà hát với những dòng nước mắt. Nội dung ca khúc là nói về tâm trạng của người
nghệ sĩ là ca hát để người mua vui để rồi khi ánh đèn màu tắt người nghệ sĩ lại
một mình giữa cô đơn… Có lẽ do cái nội dung u buồn ấy đụng chạm vào nỗi lòng
của bà nên bà rất ít khi chịu hát nhạc phẩm ấy. Nhưng hầu như đêm nào cũng có
người yêu cầu, trừ những người thân quen bắt buộc phải đáp ứng, còn thì Anh
Tuyết xin lỗi từ chối khéo.
LẠI QUAY VỀ CÀ PHÊ VỚ ĐÔNG VUI
Những ngày đầu sau khi
thanh bình, Sàigòn lại rộ lên phong trào cà phê hè phố. Những quán cốc che tạm
tấm bạt bên lề đường với những chiếc ghế gỗ lùn làm chổ tụ họp của các thanh
niên vui đón những ngày hạnh phúc mới.
Vòng quanh Hồ con Rùa,
xuống đến Phạm Ngọc Thạch, quẹo qua Nguyễn Đình Chiểu có hàng mấy chục “túp
lều” cà phê như thế mọc lên san sát bên nhau.
Trên đường Trần Quốc Thảo
gần Hội Văn Nghệ TP, một số anh em văn nghệ cũng mở quán cà phê cóc bên vệ
đường để anh em hội tụ, gặp gở sau khi chiến tranh đã kết thúc.
Chỉ là cà phê hè phố
nhưng đông vui, uống một cốc cà phê siêu, cà phê vớ nhưng thoải mài ngồi cả
ngày cũng chẳng ai rầy rà. Sau khi hết tiếng súng nổ, hết hỏa châu đầy trời,
hết bắt lính, thanh niên, sinh viên Sài gòn vui vẻ chào đón những ngày cách
mạng đông vui ngoài phố. Và các ‘quán cốc liêu xiêu một câu thơ” bên các vĩa hè
là chổ dừng chân để… “tám” đủ thứ chuyện trên trời dưới đất.
Chỉ có ai ở tuổi thanh niên vào thời điểm lịch sử
có một không hai đó mới thấy được cái thú ngồi quán cà phê bụi lụp xụp mà hầu
như đường nào cũng có. Có người còn có thuốc Ruby, Con Mèo để phì phàbên ly cà
phê vớ nhưng để… phiêu bồng hơn một số lớn thanh niên chơi… “bốc – lăn – se” tức
thuốc vấn. Anh nào cũng thủ sẵn một bọc trong túi xách để sẳn sàng bày ra cho bạn
bè tha hồ vừa bốc vừa lăn vừa se vừa liếm vừa dán rồi phì phèo nhả khói
Cà phê quán cóc (nhảy nay chổ nầy mai chổ khác
như cóc nhảy ấy mà) thời ấy được coi như thời huy hoàng lãng mạn nhất của nền…
văn hóa ẩm thực cà phê cóc Sàigòn. Ban ngày đã rộn ràng như thế đến đêm bên những
ngọn đèn dầu lù mù loanh quanh những con đường trong thành phố cũng có những
quán cóc để dân mê cà phê, mê hòa bình được tận hưởng những giờ phút, sảng
khoái, thanh bình, yên ả nhất của đời mình.
SÀIGÒN DĨ VÃNG VÀ SÀIGÒN BOLSA
Sàigòn một thuở là Hòn ngọc Viễn Đông, một Paris
lấp lánh khắp cõi Châu Á, tới hôm nay, đã mang tên khác, nhưng người ta vẫn
quen gọi tên cũ chính danh là Sàigòn. Một thành phố mãi mãi vẫn mang tên là
Sàigòn. Sàigòn của muôn đời. Sàigòn trong trái tim người đang sống ở thành phố
đó hay lưu lạc khắp năm châu thế giới..
Người Sàigòn không nhất thiết phải sinh ra tại đó,
có bao nhiêu đời Ông Bà Cha Mẹ từng lập nghiệp lâu năm bền vững. Một người, bất
cứ ai, cũng có thể nhận chính mình là dân Sàigòn, dù chỉ ở đây một ngày, một tuần
hay một tháng, một năm. Chỉ sống một ngày ở Sàigòn, nhưng yêu Sàigòn mãi mãi,
và mang Sàigòn ở trong tim, như một phần của thân xác, linh hồn mình. Chỉ như vậy
thôi, người ta có thể ngẩng cao đầu, tự hào vỗ ngực tuyên xưng, tôi chính là
dân Sài gòn.
Tóm lại, Sàigòn là của tất cả mọi người suốt giải
giang sơn, từ Bắc qua Trung tới Nam. Sàigòn như một hiền mẫu, dang vòng tay ôm
thương yêu quảng đại tới con người tứ xứ, không phân biệt Bắc, Trung, Nam và
ngay cả người ngoại quốc nữa.
Một người Pháp sinh ra ở Paris, bỗng dưng một
hôm tuyên bố, từ nay tôi không còn là một Parisien, cư
dân ở Paris nữa. Tôi là người Sàigòn và sẽ ở lại đây cho tới cuối đời. Thế là
dân Sàigòn bèn gọi chàng Tây là anh Hai, hoặc anh Tư gì đó. Tinh thần người
Sàigòn là như vậy đó, thiệt là cởi mở và phóng khoáng.
Một nhạc si sáng tác nhạc gửi: “Sàigòn ơi! Ta hứa
rằng ta sẽ trở về” . Rồi chàng cũng đã trở về thật, sau hơn chục năm xa cách.
Nhưng chàng khám phá ra mình thực sự mất Sàigòn trong thực tại. Thế nên, nếu có
sự trở lại, thì chỉ còn một hành hương về Sàigòn trong quá khứ với ngọc ngà dĩ
vãng..
Hãy cùng trở về Sàigòn từ một ký ức xa tắp mù
khơi. Sàigòn của những thập niên 1950 từ hơn nửa thế kỷ trước. Sàigòn với các hộp
đêm, sòng bài Đại Thế Giới, Chợ Lớn, một Las Vegas thu nhỏ. Tại đây có đủ loại
sòng bài và cách chơi khác nhau, lại có chỗ giải trí như xe nhỏ chạy bằng điện
húc nhau đùa rỡn, hiện nay Las Vegas vẫn còn trò chơi này. Khu văn nghệ khác
như phòng trà vũ trường. Con đường Trần Hưng Đạo Galliéni, Đồng Khánh chạy dài
từ Sàigòn tới Chợ Lớn dài vun vút dẫn khách tới sòng bài, lưu thông hàng ngàn
chiếc xe hơi nối đuôi nhau, đèn pha sáng chói, chẳng khác gì đại lộ Champs
Elyseé tại Paris.
Đường Richaud Phan Đình Phùng quả thật văn nghệ
với quán cà phê Gió Nam nỗi tiếng vì cô hàng café tuyệt sắc giai nhân. Nàng có
nước da trắng xanh liêu trai với mái tóc thề ngây thơ nữ sinh. Nhân vật đã đi
vào truyện Duyên Anh, qua bao chàng trai say đắm, tranh đua nàng, từ trí thức đến
du đãng yên hùng. Cũng tại đường Phan Đình Phùng với quán phở Con Gà sống thiến
cùng hai kiều nữ con chủ quán, nổi danh tài sắc. Yến Vỹ cùng chị, cả hai để mái
tóc bồng rối như minh tinh Brigitte Bardot. Bao thực khách đến chẳng phải phở
ngon, nhưng vì Yến Vỹ đẹp lại hát hay. Thì ra ngoài quán café, nhà hàng phở
giai nhân cũng khiến một chàng Cử Văn Khoa phải vào nhà thương điên vì tình si.
Phan Đình Phùng còn thêm café quán Luật Khoa và cơm gà Xing Xing, với những
giai nhân lai Pháp, càng làm thêm Sàigòn có một chút Paris.
Sàigòn by night đã là những phòng trà ca nhạc và
vũ trường khiến màn đêm Thành Đô trở nên lung linh ảo huyền, như một ngàn lẻ
đêm huyền thoại. Nổi bật nhất từ cuối thập niên 50 là phòng trà ca nhạc Anh Vũ.
Nơi đây khởi đi cho nhiều danh ca sau này. Thanh Thúy ở tuổi mượt mà thanh xuân
đôi tám đã hát từ Anh Vũ, làm mê say bao tao nhân mặc khách. Người ta mê Thanh
Thúy vì có lối trình diễn độc đáo bên giọng ca trầm buồn. Thanh Thúy vừa hát vừa
đưa tay vuốt làn tóc buông rơi, sau đó gây chú ý là tự vuốt đôi chân ngọc tuổi
dậy thì, có lúc nàng lại vưốt cây micro nữa, khiến các chàng trai sởn da gà vì
sốt nóng lạnh. Ban CBC thuở Anh Vũ đã là ban nhạc kích động nhỏ nhất thế giới,
với tuổi khoảng sáu, bảy mà thôi. Thảm kịch cũng xảy ra cho phòng
trà Kim Điệp Sàigòn, khi một chàng Tây lai bị giết. vì dám cặp kè với người đẹp
Tuyết Không Quân. Tuyết là một giai nhân nổi tiếng sát phu qua hai đời chồng bị
tử nạn trong chiến tranh. Phòng trà Kim Điệp sau vụ ấu đả vì ghen tuông. bị
đóng cửa để trở thành Nhà sách.
Quán café trà thất đẹp nhất Sàigòn phải kể là
Quán Gió, sau thành “Hầm Gió”, thiết trí sâu dưới đất, như một hầm rượu bên Âu
châu. Người đẹp ngồi cash, bên một thùng rượu làm thành cái bàn khá ngoạn mục.
Ca sỹ Thanh Lan thường có buổi trình diễn tại đây
Chính những phòng trà đêm Sàigòn đã đưa nhạc phản
chiến của Trịnh Công Sơn lên đỉnh cao. Nhiều ca khúc phản chiến cấm hát ở Đài
phát thanh nhưng tại phòng trà thì vẫn được trình diễn tự do.
Vũ trường, phòng trà Sàigòn còn ghi lại một
thiên tình sử đẫm lệ, khi nữ ca sỹ Diệu Anh kiều diễm hát hay, đã tự tử vì . .
. bị một nam ca sỹ bỏ rơi. Chàng trai bạc tình sau đó vì buồn và hối hận đã bỏ
hát vài năm. Đêm Sàigòn trà thất vũ trường còn ghi đậm cây si thường xuyên Mai
Thảo và Hồng Dương, để viết thêm những tình sử lâm ly với hai nữ danh ca khác.
Đêm Sàigòn bạc vàng, bạc triệu với Lệ Thu và
Khánh Ly, những tiếng hát vàng ròng cả nghĩa trắng lẫn nghĩa đen, vì lương
tháng hai nữ danh ca này lên tới một triệu. Trong khi đó, lương một Đốc sự, Phó
Quận trưởng tới năm 1975 chỉ có 33 ngàn đồng một tháng.
Vũ trường thơ mộng nhất Sàigòn là Mỹ Phụng ngay
tại bến Bạch Đằng. Thuở đó cuối thập niên 50 đầu 60, người ta thích đi Mỹ Phụng
vì ban đêm có gió sông Sàigòn mát dịu lại thêm nữ danh ca Lệ Thanh. Nàng chuyên
hát những tinh khúc ướt át, trong điệu slow tắt đèn, mờ ảo như “Dang dở ” “Nỗi
Lòng”. Tiếng hát mê đắm Lệ Thanh đã thu hồn một Bác Sỹ trở thành phu quân của
nàng.
Đêm Sàigòn ngọc ngà dĩ vãng khiến người ta khó
quên được vì những dạ vũ Bal Famille có khi kéo dài từ đêm suốt sáng. Ai có ngờ
cô bé Mai đen 16 tuổi, thường đi với bé Phú, sau này lại trở thành ca sỹ Khánh
Ly nổi danh cho tới nay. Phú mệnh danh là Phú chuột, trắng trẻo, mũm mĩm xinh
như thỏ con, thường nhảy cùng Mai với đám bạn trai. Mai nhảy có khi bỏ cả giày
cao gót giữa đêm vui đã gần rạng sáng.
Thuở ấy, người đi dạ vũ phải trầm trồ khen ngợi
tài nhảy của Tony Khánh, thường nhảy cặp với vợ. Mỗi lần Khánh cùng phu nhân ra
sàn nhảy, mọi người đều ngừng khiêu vũ để thưởng thức tài nghệ bậc sư biểu diễn.
Sau đó là pháo tay nổ ròn như ngày Tết.
Hòn ngọc Viễn Đông Sàigòn
từ thập niên 50 nay đã trên nửa thế kỷ, Sàigòn đã đổi tên. Người Sài Gòn đã bay
xa, lập thành bao nhiêu Little Sàigòn rải rác khắp hải ngoại . Và dân Sàigòn
năm xưa, những chàng trai hào hoa phong nhã, bao giai nhân ca sỹ lừng danh, nay
đã thất thập cổ lai hy, hay gần mấp mé tuổi hạc. Thế nhưng trái tim chằng bao
giờ già. Bởi vậy nói như Thi sỹ Thanh Tâm Tuyền ta gọi tên ta, Sàigòn cho đỡ
nhớ. Hỡi những Đêm Mầu Hồng, Queen Bee, Arc En Ciel, Mỹ Phụng, Tự Do . . .
Những đêm vui thắp sáng kỷ niệm, những ngày xuân mãi mãi xanh tươi, để làm
thành một Thủ Đô Sàigòn bất tử, ta yêu lắm và yêu mãi mãi. Sàigòn trong lời
nhạc của Ngô Thụy Miên, thì dù Em của ta có đi khắp thế giới Paris, Vienne,
cũng chẳng thể tìm đâu đẹp hơn Sàigòn của ta ngày hôm qua dĩ vãng cũng như
Sàigòn mai sau.
Biên soạn từ lophocvuive
onlinr
Ảnh sưu tầm
Tác giả: khuyết danh
Nguồn: 4muangon online
---ooo0ooo---
Nguồn: 4muangon online
đại lý vé eva air
mua ve may bay eva di my
hãng máy bay korean air
vé máy bay đi mỹ mùa nào rẻ nhất
vé máy bay đi canada giá rẻ
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngau Hung Du Lich
Kien Thuc Du Lich