Trang

Thứ Sáu, 16 tháng 5, 2014

47. TAM QUÁN

BƯỚC VÀO CÕI PHẬT –Bài 47
 Cố Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú
47. TAM QUÁN
 Xưa kia, nghe kể chuyện cụ Trạng Trình, ngoài các  câu sấm liên quan đến thời thế, có một lời tiên đoán về việc người ta làm đổ cái bia ở mộ của cụ: “Cha con thằng Khả, làm đổ bia tao, làng nước xôn xao, bắt đền tam quán”.  Quả nhiên, bao nhiêu năm sau, hai bố con một người tên là Khả đi đào chuột hay rắn gì đó, làm đổ bia của cụ.  Chức dịch trong làng phạt ba quan tiền, nhưng vét hết tiền trong nhà, họ chỉ có đúng một quan tám mà thôi!  Cụ Trạng đoán như thần: quan tám nói lái là tam quán!
Mới đây, khi đọc mục “chùa chiền” trong sách Nếp cũ của Toan Ánh, tôi thấy tác giả căn cứ vào bài “Vài nhận xét về các tượng thờ và cách bài trí trong các chùa Việt Nam” của Đức Hòa đăng trong Văn hóa nguyệt san số 58, tháng 2-61, Saigon, để nhận rằng chữ nhà tam quan của nhà chùa gốc ở tam quan, ông nói đó là không quan, giả quan và trung quan.
Tôi không biết chữ Hán nên không dám bàn, xin được “dựa cột”.  Chỉ xin kể chuyện dính líu đến tam quan và tam quán.
Từ điển Phật học Hán Việt ghi: Tam quan là ba cửa, chỉ ba cửa ải huyền diệu, đó là nói về pháp môn. Tự điển ghi tiếp chuyện Lăng Nghiêm tam quan, dùng chữ Lăng Nghiêm vì có dính líu đến một người chú thích kinh đó.  Người ấy bị hỏi ba câu mà không trả lời nổi, vậy là không qua nổi “ba cửa ải”.  Lại có chuyện Hoàng Long tam quan, dùng chữ Hoàng Long vì người đưa ra ba câu hỏi hóc búa không ai trả lời được là thiền sư Hoàng Long (tức là Phổ Giác thiền sư ở trên núi Hoàng Long bên Tàu, đời Tống), tam quan nghĩa là “ba cửa ải” cũng nghĩa như chuyện trên. Tôi trộm nghĩ rằng trong chữ cổng tam quan hay nhà tam quan, quan có nghĩa là cửa.
 Bây giờ nói về tam quán.  Vẫn theo từ  điển nói trên, ta thấy: tam quán là ba phép quán.  Trong các thuyết của các nhà nói về Tam quán thì thuyết Tam quán của tông Thiên Thai là phổ thông nhất.
  


Ngoài Thiên Thai tam quán, còn có Hoa Nghiêm tam quán, Nam Sơn tam quán và Từ Ân tam quán.
Thiên Thai là tên núi ở tỉnh Triết giang bên Tàu. Ngài Trí Khải (538-597) đời nhàTùy (581-618) tới núi đó lập ra một tông, tông này tên là tông Thiên Thai, người ta gọi ngài là Thiên Thai đại sư, tên khác là Trí Giả đại sư. Tông này lấy kinh Pháp Hoa làm căn bản, luận Trí Độ của ngài Long Thọ (tổ thứ 14 của Phật giáo) làm kim chỉ nam và thuyết minh diệu lý “nhất tâm tam quán”. Trước tên là tông Pháp Hoa, sau tên là tông Thiên Thai. (Tông này truyền sang Nhật bản, gọi là tông Thiên Đài).  Thật ra, ngài Huệ Văn mới là sơ tổ tông Pháp Hoa, ngài Huệ Tư là nhị tổ.  Ngài Trí Khải là tam tổ, được tôn là giáo tổ, ngài viết nhiều bộ sách rất có giá trị, nhờ đó mà tông Thiên Thai phát triển mạnh.  Có nhiều sách xếp ngài Trí Khải là tổ thứ tư  vì tôn ngài Long Thọ làm sơ tổ mặc dù ngài ở Ấn Độ, thế kỷ II và không lập ra tông Thiên Thai.
Để có một ý niệm về “nhất tâm tam quán” tức là “Thiên Thai tam quán”, chúng ta nên biết thế nào là tục đế và chân đế (chân đế còn được gọi là thật đế hay đệ nhất nghĩa đế) tức là Chân lý tương đối và Chân lý tuyệt đối.  Tục đế là chân lý dành cho người phàm, còn sống trên cõi đời này, xử sự trên cõi đời này, còn chân đế thì dùng cho cõi thánh, không còn bị ràng buộc vào thế gian này nữa.  Trong Tâm kinh mà chúng ta vẫn tụng, ta thấy “vô trí diệc vô đắc”, vài dòng sau lại thấy “đắc a-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề”. Trên nói không đắc, ngay dưới lại nói có đắc, mâu thuẫn quá. Thật ra, đối với người phàm thì gọi là đắc, đối với hàng Phật thì gọi là không đắc vì có gì đâu mà đắc!
Nhìn sự vật (vạn pháp) theo con mắt phàm, theo tương đối, theo tục đế, thì rõ ràng cái gì cũng hiện hữu, cũng chiếm một chỗ trong không-gian, ngay cả ý nghĩ cũng hiện hữu.  Ta nói rằng vạn pháp là CÓ.
Nhưng với sự “nhìn” theo chân đế, theo tuyệt đối thì trong vũ trụ này, chẳng có cái gì đứng vững một mình và tồn tại mãi mãi. Sự sự vật vật đều nương tựa vào nhau mà tồn tại, chẳng có tự-thể, mọi thứ đều do nhân duyên mà thành.  Chúng có đấy, nhưng nhờ cái khác mà có, có một cách giả dối, có mà GIẢ, có mà như không, cho nên bảo là KHÔNG.  Không nghĩa là thiếu vắng tự-thể, chứ chẳng phải là không có gì..
Với cái nhìn tương đối, vạn pháp là CÓ.  Với cái nhìn tuyệt đối, vạn pháp là KHÔNG.  Có, không chỉ là hai mặt của một đồng tiền.  Chấp nhận cả hai cái đó, cũng như chấp nhận hai mặt sấp ngửa của một đồng xu, như thế gọi là TRUNG ĐẠO.
Tam quán của tông Thiên Thai bắt nguồn từ đó:
1/  KHÔNG QUÁN:  Theo chân đế, các pháp vốn là không, nhưng vì chúng sinh mê lầm nên chấp là có thật.  Nhờ quán KHÔNG mà phá mê lầm ngõ hầu thoát cảnh sinh tử luân hồi.
2/  GIẢ QUÁN:  Nhìn sự vật trên thế gian, thấy là có, phải dùng phép quán GIẢ để nhận thấy rằng đó là GIẢ cả.
3/  TRUNG QUÁN:  Vuợt lên cả hai thứ vừa nói trên đây, phải nhờ phép quán TRUNG để thấy cả hai khía cạnh “có không” cùng một lúc, hai cái không rời nhau, mục đích thoát ra ngoài các mâu thuẫn.
Dùng “một tâm” mà đồng thời thực hành cả tam quán nên gọi là “nhất tâm tam quán”.
Từ cái cổng tam quan, mà nói lan man tới đây là quá dài, xin tạm ngưng.
---ooo0ooo---

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét