Trang

Thứ Hai, 12 tháng 5, 2014

41. VÀO CHÙA

BƯỚC VÀO CỬA PHẬT – VÀO CHÙA (41)
 Cố Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú
41. VÀO  CHÙA
Chùa là nơi thờ Phật, có tăng hoặc ni ở.  Dịch là pagode, pagoda, cũng có nơi dịch là temple bouddhique, buddhist temple.  Trong tiếng pali mà đức Phật dùng để thuyết pháp, có chữ thūpa, sanskrit là stūpa, chữ Tích Lan là dagoba.  Nghĩa đen là búi tóc (hair knot) nhắc đến một nét đặc thù tròn tròn của kiến trúc Phật giáo Ấn Độ. Thoạt đầu, stūpa là nơi thờ xá lợi của đức Phật Thích-Ca hay các thánh tăng, sau chỉ là nơi thờ Phật, coi như đức Phật còn hiện diện.  Ta phiên âm chữ stūpa là phù-đồ (“dù xây chín đợt phù-đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người”). 
Có người bàn rằng chữ chùa của ta là do chữ phù-đồ mà ra, tôi không dám chắc.  Lại có người nhận rằng chữ mít của ta là do chữ paramita (= ba-la-mật-đa) mà ra và nói chùa nào cũng trồng cây mít, gỗ mít dùng làm mõ, tượng ... Xin nhường cho các nhà ngôn ngữ học quyết định.
 
Chùa chiền là danh từ để chỉ chung các chùa.  Có một ông nói rằng chiền là do chữ thiền mà ra.  Tôi không có ý kiến.


Đình là nơi thờ thành hoàng của làng, đồng thời là nơi hội họp của làng. 
Đền (temple) là nơi thờ thần thánh hoặc những nhân vật được thần thánh hóa, thí dụ như đền Kiếp Bạc thờ đức Trần Hưng Đạo, đền Sòng thờ bà Chúa Liễu Hạnh ...
Miếu là một cái đền nhỏ thờ những thần “thấp” hơn, thí dụ: miếu thổ địa. 
Miễu thì nhỏ hơn miếu, thí dụ: miễu âm hồn. 


Am có hai nghĩa: đó là chùa nhỏ của tư gia, hoặc là nơi cất sơ sài nơi vắng vẻ dành cho người muốn xa cảnh náo nhiệt. 
Tĩnh là một cái bàn thờ thần thánh. 
Văn miếu, văn từ, văn chỉ là nơi thờ đức Khổng tử, các bậc tiên hiền hay các danh nho.

---ooo0ooo---

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét