Trang

Thứ Hai, 26 tháng 5, 2014

4. PHẬT DI GIÁO KINH

BƯỚC VÀO CÕI PHẬT – QUYỂN 2 – BÀI 4
Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú
4. PHẬT DI GIÁO KINH
Vua Đường Thái Tông nước Trung-Hoa sai người chép Phật Di Giáo Kinh (nghĩa là Kinh Di Giáo của đức Phật) để phát cho các quan từ ngũ-phẩm trở lên và thứ-sử các châu, mỗi người một cuốn. Nếu các quan đó thấy đức-hạnh của tăng ni không giống như lời đức Phật dạy trong Kinh, thì có thể lấy lẽ công và tư mà khuyến-cáo, khiến phải thi-hành.
Kinh này chép lại vắn tắt lời đức Phật dạy các đệ-tử khi Ngài sắp nhập Niết-bàn, cho nên gọi là Kinh Di Giáo. [Kinh nói về thời-kỳ đức Thế-tôn gần nhập diệt, là Kinh Đại Bát-niết-bàn, gọi tắt là Kinh Niết-bàn].
Kinh này nguyên viết bằng chữ Phạn, được một nhà sư người Thiên Trúc (Ấn-Độ) ở Trung Hoa, tên là Đàm Vô Sấm, đời nhà Lương dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán.  Một nhà sư khác, người Trung-Hoa, tên là Thích Pháp  Hiển cũng dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán, đời nhà Tấn.  Bản dịch sau ngắn hơn bản dịch trước nhiều, vì chỉ có 19 phẩm thay vì 52 phẩm như bản trước.
Hòa thượng Thích Tâm Châu đã dịch bản Hán-văn của Sa-môn Thích Pháp Hiển ra Việt Văn vào năm 1958.
Tiểu Khải Phật Di Giáo Kinh
So với Kinh Đại Bát-Niết-bàn thì Kinh Di Giáo ngắn hơn nữa vì kinh sau chỉ ghi lời dạy của đức Phật vào lúc gần nhập Niết-bàn, chứ không ghi các lời thuyết giảng về Phật-tính và dạy các bồ-tát tu-hành bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh để đạt Đại Niết-bàn.
KINH DI GIÁO  gồm các phần sau đây:  
1. Lời Tựa                               2. Trì-giới                  3-. Chế-ngự Tâm   
4. Tiết-thực                              5. Giới ngủ nhiều       6-  Giới hờn- giận   
7. Giới kiêu-mạn                      8. Giới nịnh-bợ           9. Ít ham muốn    
10. Tri-túc                                11. Lìa xa                 12. Tinh-tấn    
13. Không quên niệm              14. Thiền-định          15. Trí-huệ    
16. Không nói đùa                   17. Tự cố gắng         18. Quyết-nghi   
19. Chúng-sinh được độ         20. Pháp-thân Phật thường còn    
21. Kết-luận.
Xem đầu-đề các phần ghi trên, chúng ta nhận thấy ngay tính-cách thực tế của lời dạy, ngắn gọn và dễ hiểu, cốt tóm lược cụ thể cách-thức tu hành.  Lời dạy thiết thực, đơn giản làm chúng ta liên tưởng đến Kinh Pháp Cú.

 
 ● Sau đây, xin trích đăng phần “TRÌ GIỚI” (lược dịch):
“Hỡi các Tỳ-khưu. Sau khi Ta tịch diệt, cần phải tôn trọng Giới luật. Giới luật là đại sư của các ngươi; nếu Ta còn ở đời thì Ta và Giới luật không khác nhau.
Kẻ biết giữ Tịnh giới, không ham buôn bán, sắm sửa nhà ruộng, nuôi nô tỳ, gia súc, tránh xa vật báu và cây cối trồng tỉa như xa tránh lửa, không chặt cây cày ruộng, không bốc thuốc, xem tướng, coi sao, đoán vận mạng, làm bùa chú, thuốc thánh, thuốc tiên.  Cần phải giữ mình, ăn uống đúng bữa, dùng đồ thanh tịnh.  Chẳng nên giao hảo với người sang, khinh chê người kém.  Cần phải dùng tâm niệm đoan chính để mong giải thoát khỏi vòng sinh tử.  Không được chứa giấu những kẻ xấu, không được phô tướng lạ để lừa gạt người. Đối với các thứ cúng dường, cần phải biết vừa đủ và chẳng nên tích lũy.
Đó là nói về các hình thức Trì giới. Giới là gốc của Giải thoát. Nhờ Giới mà sinh Thiền định và Trí huệ diệt khổ.
Vậy các tỳ-khưu phải trì Tịnh giới, đừng để thiếu xót, hủy hoại.  Ai biết trì giới, thì người đó có pháp lành.  Không trì giới thì không thể sinh công đức được.  Vậy phải biết rằng Giới là nơi an trụ an ổn nhất của các công-đức”.
● Tiếp theo là phần “CHẾ NGỰ TÂM”.
“Hỡi các tỳ-khưu, khi đã an-trụ nơi Giới rồi, thì phải chế ngự ngũ căn, ngăn ngũ căn phóng dật, nhập vào ngũ dục, giống như người chăn bò, không để cho bò chạy bừa bãi làm hại lúa người ta.
Nếu buông thả ngũ căn thì ngũ dục tăng lên vô hạn, không kiềm chế nổi, sẽ  giống như ngựa dữ không cương, lôi người ta xuống hố.  Ai bị cướp làm hại, thì chỉ khổ một đời thôi, còn ai bị ngũ căn làm hại thì bị tai ương nhiều đời.  Ngũ  căn làm hại rất nặng, cho nên phải chế ngự ngũ căn như chế ngự giặc vậy.
Nếu buông thả ngũ căn thì sớm muộn sẽ thấy sự tiêu diệt.  Ngũ căn lại do cái tâm làm chủ, vậy các tỳ-khưu phải chế  ngự cái tâm, nó đáng sợ hơn rắn độc, thú dữ, giặc cướp, nó hại hơn cả lửa cháy tràn-lan.  Giống như người kia tay cầm bát mật, chỉ nhìn bát mật mà không thấy cái hố dưới chân, giống như con voi điên không có xiềng sắt, giống như con vượn thả, leo cây, mặc sức nhảy truyền, khó mà kiềm-chế được.  Phải khuất phục cái tâm, đừng để tâm phóng dật.  Buông thả cái tâm thì việc lành tiêu ma, chế ngự cái tâm thì mọi việc xong xuôi.  Vì thế các tỳ-khưu phải chuyên cần tinh tấn, khuất phục cái tâm của mình!”
● Sau đây là phần “ÍT HAM MUỐN”.
“Hỡi các tỳ-khưu! Nên biết rằng người nhiều ham muốn, vì mong nhiều lợi nên nhiều khổ não. Người ít ham muốn, vì không cầu, không muốn, nên không bị cái khổ ấy. Ít ham muốn là một hạnh mà mình phải tu tập; hơn nữa hạnh này làm nẩy sinh ra các công đức nên lại càng phải tu tập. Người ít ham muốn chẳng cần phải nịnh bợ ai để lấy lòng người ta, và chẳng bị các căn lôi kéo. Người đó trong lòng thanh thản, không lo không sợ; đụng chạm đến việc gì cũng thấy dư giả, không thấy mình thiếu thốn. Người ít ham muốn ắt có cảnh Niết-bàn”.
“Hỡi các tỳ khưu! Nếu muốn thoát khỏi mọi khổ não thì nên quán tưởng lẽ tri túc. Phép tri túc là chỗ giàu có, vui vẻ, yên ổn. Người tri túc dù nằm trên đất cũng thấy yên vui. Kẻ không tri túc dù có ở thiên đường cũng chưa vừa ý”. 

---ooo0ooo---

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét