Trang

Thứ Ba, 3 tháng 12, 2013

ĐỀN THÁP PAGAN



ĐỀN THÁP PAGAN
Cư sĩ Trần Kiêm Đạt
---o0o---
Trong lịch sử kiến trúc vùng Đông Nam Á, sau Borobudur và Angkor, thì phải kể đến khu vực những đền tháp Pagan (Vạn Phật Tự). Qua thời gian, Pagan bị hoang phế lâu đời. Những gì còn lại là do khai quật và chỉnh tu khoảng 1945-1946. Chính những công  trình kiến trúc và  điêu khắc này đã  đem lại niềm tự hào của nền nghệ thuật kiến trúc Á Đông tiêu biểu.  Không ở đâu trên đất Á Châu, kể cả đất Ấn Độ, chỉ tại một khu vực nhỏ thôi  mà mật độ  các di tích  chùa tháp lại  dày đặc như  tại Pagan.
Thành phố cổ Pagan
Thành  phố cổ Pagan chỉ có diện  tích khoảng 40km2,  quy hoạch bình  đồ vuông, nằm trên bờ sông Iraouaddhi. Theo những  truyền thuyết kể  lại thì vua  Anaoratha bắt đầu  theo Phật Giáo, liền sai sứ thần sang nước láng giềng Thaton của người Môn vốn  theo đạo Phật  để cung thỉnh  một số kinh  sách về phiên dịch. Nhưng vua nước Thaton khước từ. Vua Anoratha đem binh sang chinh  phạt Vương  quốc Thaton,  không những  thu hồi được nhiều kinh sách và  tượng Phật Giáo, mà còn bắt  nhiều thợ thủ công của Thaton đưa  về Pagan, để  tham gia ngày  đêm trong việc  xây dựng chùa tháp Pagan. Pagan hồi đó là kinh đô văn hóa lớn.
Tháp Shwe-dagon
Cùng với việc biên dịch và hiệu đính toàn bộ Tam tạng, vua Anoratha liền cho xây dựng một tòa lầu trang nghiêm hùng vĩ, cất giữ các bộ Tạm tạng để cúng dường Phật, đồng thời còn cho xây dựng nhiều chùa, tháp khắp đất nước Myanmar, trong đó, nổi tiếng nhất là tháp Shwe-dagon. Khi nhà vua qua đời, ngôi tháp này vẫn chưa xây xong, con ông tiếp tục hoàn tất. Ngôi tháp hình chiếc chuông vàng, trong tháp cất giữ thánh vật là chiếc xương bả vai trước và chiếc răng của Đức Phật. Pagan trở thành một đô thị tâm linh, một cõi đi về của cội nguồn dân tộc Myanmar.
Tượng vua Anoratha
Chính nhờ sự tận lực hộ trì của vua Anoratha, nên Phật giáo vương triều Pagan đã trở thành trung tâm văn hóa Phật giáo Nam truyền lúc bấy giờ. Vua Sri Lanka có lần sai xứ tới Myanmar để thỉnh cầu vua Anoratha ban cho Tam tạng kinh và cử tăng đoàn sang Sri Lanka truyền thừa giới pháp. Vì những cống hiến to lớn cho Phật giáo của Anoratha, nên nhà vua được tôn là “vua Asoka” của Myanmar.
Sau khi Anoratha qua đời, người kế nghiệp bất tài, nên đã xảy ra phản loạn. May thay, một người con khác lên nối ngôi, tên là Tilinman đã củng cố lại vương triều. Đây là một vị vua anh minh và cũng là một Phật tử thuần thành, ông tiếp tục mở mang lãnh thổ, phát triển đất nước, và đưa Pagan bước vào thời kỳ phát triển rực rỡ nhất. Tilinman đã xây cho mình một đài kỷ niệm xứng danh, đó là chùa Ananda. Ananda nổi lên lộng lẫy giữa đô thị cổ Pagan, đứng một mình ngạo nghễ giữa trời xanh và thách đố với thời gian.
Chùa Ananda
Năm 1300, vó ngựa xâm lăng của Mông Cổ buộc những cư dân ở đây phải rời bỏ thành Pagan cổ kính thiêng liêng, mặc cho những cơn gió cuốn theo lớp bụi vàng của vùng cao nguyên cháy nắng phủ lên những đền đài trầm mặc, cô tịch. Vương triều Pagan tồn tại gần 3 thế kỷ và đều lấy Phật giáo Theravada làm quốc giáo. Điều này không chỉ có ý nghĩa thuần túy về mặt tôn giáo mà còn giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành quốc gia dân tộc, và văn hóa Phật giáo đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được trong nền văn hóa Myanmar.
Lúc này có trên 5,000 chùa  tháp, nhưng qua thời gian và chinh chiến hiện nay chỉ còn khoảng 2,300 ngôi chùa tháp.  Hầu hết những chùa tháp Pagan được  kiến tạo vào khoảng thế kỷ XI- XII, dưới triều đại Pagan. Những nhà khảo cổ UNESCO cho rằng:  "Pagan là cả một rừng kiến trúc Phật Giáo Tiểu  Thừa".  Cũng tại đây, đã chứng  minh rõ nét nhất về tinh hoa và  tài năng của dân tộc Miến Điện  được thể hiện qua các đền  tháp, biểu hiện phong  cách kiến trúc truyền  thống Miến Điện trong giai đoạn hình thành và phát triển. Phật Giáo phát triển tại Miến Điện bởi những sắc dân người Môn và người Piuk, vốn từ Ấn Độ sang.  Cho đến năm 1001, triều đình Miến Điện đã  thừa nhận vị  Tăng Thống  của  Phật Giáo là  Đại Lão Hoà Thượng tại  Pagan.
 Pagan một thời  là kinh đô của  triều đình vua Anoratha. Pagan được kiến tạo từ đó. Pagan  có tên cổ là Arimadda Napura có nghĩa là "Thành  phố đạp chân lên kẻ thù",  ám chỉ sự chiến thắng những bộ tộc người Môn tại Thatôn. Đi từ  cổng đền vào,  có hai ngôi  đền thờ, khắc  chạm hình những Maha Girinat. Đây  là vết tích của đạo Nak  có từ trước của người dân Miến. Đi vào trung  tâm của khu vực nầy,  tất cả những đền tháp  đều có tên (phần  đuôi) là "Cetiya"  hay là "Gu"  (tháp hay chùa).
Một loại tháp Cetiya
Theo danh từ  Phật học, "Cetiya" biểu  trưng cho Phật và  Pháp. Cetiya gần với khái  niệm "Stupa" (Tháp) của Ấn Độ.  Tất cả có đến 2,289 Cetiya. Những ngôi tháp  ở Pagan được phân chia ra  làm 4 loại khác nhau, tùy tầm cỡ và tùy phong cách:  Loại thứ nhất là  loại stupa (tháp)  hình bầu, hơi giống  như kiểu tháp Chorten của Tây  Tạng, Boutan. Ngôi tháp có niên  đại sớm nhất của loại nầy xuất hiện vào thế kỷ VIII có tên là Pupaya, do những thổ dân người Piuk xây lên. Loại thứ nhì là một  loại Stupa hình quả chuông, ở  giữa có những đường gờ nổi lên, trang trí bằng những hoa  văn. Chóp của loại tháp nầy là đỉnh cao nhất  của những đường gờ bao quanh.  Không xác định được niên đại của loại tháp nầy, nhưng nhiều tư liệu cho biết là triều đình  vua Aniruddha  rất tán  thưởng phong  cách kiến  trúc nầy. Những Stupa loại  này có nền hình bát giác,  có 1 hay nhiều tầng,với những hồi lang bao quanh. Thông thường thì Stupa và nền được xây dựng lên trên một hình Kim tự tháp khổng lồ. Loại thứ ba cấu  tạo theo kiểu hình  chuông và cũng có  những đường gờ ở giữa.  Nền hình tròn hay hình  bát giác. Trên đỉnh vòm chuông được kiến trúc  theo hình bát giác.  Tất cả được trang  trí hài hòa và  cân đối. Loại thứ tư  cũng cấu trúc  hình chuông, có nền tròn, nhiều  bậc, không có hành lang rộng, không có những đường gờ.  Hầu hết bên ngoài những chùa tháp Myanmar đều có tạc Thần Hộ Vệ. Những vị Thần chính nầy phải kể: Thần Virupaksa, Thần Virudhaka, Thần Dhtarastra và Thần Kubera. Những tượng này rập theo khuôn mẫu ở chùa tháp Bharhut (Ấn). Ảnh hưởng Ấn Giáo còn đọng lại với tượng Vichnou và tượng Shiva.
Các tượng thần trong tháp
Nhìn chung  lại, các loại Ceytiya  kể trên không giống  như kiểu kiến trúc Ấn Độ cùng thể loại  này. Chức năng của những tháp này cũng  hoàn toàn  khác, vì  toàn bộ  dùng cho  những hoạt động tôn giáo. Họ muốn nêu lên biểu trưng  của Niết Bàn, mục đích cao nhất trên con đường tu  hành. Nền Kim tự tháp gợi lên  hình ảnh của vũ trụ, không gian hiện đang sống.
Những đền  tháp ở đây  đều dựa theo  mô hình kiến trúc Tích Lan và Ấn Độ. Người Miến Điện thường xây đền tháp trên những đỉnh  đồi, vì họ quan  niệm càng lên cao  chừng nào thì tâm hồn càng thanh thoát và xa trần tục bấy nhiêu.  Tại Pagan còn có một loại hình  kiến trúc Phật Giáo khác nữa: loại đền Gru. Những  loại đền này được thiết kế  trong những hang động và những giả sơn (Gru có nghĩa là hang). Phần bên trong của những đền hang nầy là một hệ thống hang động và các phòng vòm. Kiểu vòm  nầy rất  phổ biến trong những  kiến trúc Phật Giáo  tại Miến. Đây không phải  khuôn rập theo kiến  trúc Ấn Độ, mà  thực chất là của người Piuk thường xây. Đa số những  ngôi đền tại Pagan được xây  dựng trên những khu vực đất bằng  phẳng và có  nguồn gốc từ  những Stupa. Quá  trình hoàn thành các công trình nầy là do  người Ấn, người Môn và người Piuk hợp tác.
Đến Myanmar là bước vào một thế giới khác với hương vị, cảnh quan, và cảm giác hết sức quyến rũ, với một bầu không khí thật sự khác thường. Rangoon, thủ đô của Myanmar, là một nơi kết hợp hài hỏa giữa truyền thống và hiện đại, giữa một bên là một nền văn hóa Miến Điện thực thụ hòa cùng với những di sản thời thuộc địa sót lại, vẫn còn tồn tại hàng thập kỷ sau khi Anh quốc rút lui.  Nhịp đập của thành phố hòa nhịp cùng những con đường rộn rã của nó, tạo nên một nét rất riêng của đất nước: người Myanmar. 
Chùa Kyaikhtiyo
Chùa Kyaikhtiyo là một trong những ngôi cổ nhất và nổi tiếng nhất trong tất cả các ngôi chùa ở Myanmar. Chùa Kyaikhtiyo tọa lạc gần thị trấn Kyaikhto, quận Thaton và nhiều người tin rằng nó được xây dựng trong thời gian Đức Phật còn sống, trên 2.500 năm trước. Theo truyền thống của đạo Phật, tên ngôi chùa này được bắt nguồn từ "Kyaik" có nghĩa là "chùa" và "yo" có nghĩa là "ngự trên đầu của nhà ẩn dật"; còn trong tiếng Pali thì "ithi" nghĩa là "một nhà ẩn dật" và vì thế Kyaikhtiyo hàm ý "ngôi chùa mang đầu của nhà ẩn dật". Bởi vì truyền thuyết kể rằng sau khi một người tu hành xuống tóc vì Đức Phật thì không còn quyến luyến gì trần đời và toàn tâm đi tìm miền cực lạc. Nơi đây có một tảng đá thiêng, được bao bọc bởi những lá bằng vàng dát mỏng, nằm cheo leo trên bờ một vách đá. Truyền thuyết kể rằng, sở dĩ tảng đá giữ vững được vị trí của nó là nhờ có một sợi tóc của Phật Tổ được đặt ở một vị trí chính xác trong một cái tháp thờ cao đến 7,3m nằm trên khối đá này.
 Ngôi chùa được xây dựng trên một tảng đá tròn, hình quả trứng rất to lớn trên độ cao 1.100m so với mặt biển. Đây là một công trình kiến trúc tôn giáo nổi tiếng thế giới, một di sản văn hoá khổng lồ của nhân loại. Trước khi tới Yangon, những người nước ngoài đều đã có khái niệm sơ bộ về kỳ quan này qua sách báo, phim ảnh hoặc lời kể. Điều đáng nói là khoảng cách giữa khái niệm và thực tế là rất lớn, điều này tạo ra niềm hứng thú và cảm phục cho mọi người như khi chính ta đang đứng trước Angkor vĩ đại. Quần thể kiến trúc to lớn này tọa lạc trên đỉnh một khu đồi lớn với nhiều hệ thống bậc thang trải dài xuống tận chân đồi và một hệ thống thang máy hiện đại.  Từ dưới chân núi, bạn chỉ nhìn thấy duy nhất chỏm đá nhô ra phía ngoài; nhưng khi lên đến đỉnh, cảnh quan diễn ra trước mắt là một quần thể kiến trúc thống nhất. Ngôi chùa Kyaikhtiyo cao gần đến 30mét với vô vàn tượng Phật được đặt khắp ngóc ngách, đặc biệt có một số tượng Phật được trang điểm bằng hàng nghìn viên đá quý, hàng trăm viên kim cương với hàng trăm chiếc chuông vàng. 
Toàn bộ khuôn viên chùa vàng có kích thước hình chữ nhật, cao hơn mặt bằng thành phố 20mét. Từ 4 hướng chính có 4 dãy cầu thang có mái ngói che phủ. Dãy cầu thang dài nhất có 175 bậc, dãy ngắn nhất 104 bậc. Hai bên các dãy bậc thềm là hàng loạt các nhà nghỉ cho khách hành hương. Để leo lên đến được đỉnh núi dài 12km tính từ vùng Kimmunsakhan, du khách phải leo bộ qua 20 trạm nghỉ khác nhau với các quán cóc nhỏ phục vụ đầy đủ các loại nước giải khát và trái cây.  Tuy nhiên, điểm hấp dẫn mọi người nhất là trong suốt quãng đường dài như thế, không một tia nắng nào có thể ảnh hưởng đến vì các tán lá cây rộng lớn có thể che mát mọi người.
---ooo0ooo---

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét