LÀNG NGHỀ GỐM PHƯỚC
PHÚ – HUẾ
---o0o---
Phước Phú thuộc xã Phong Hòa huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên Huế, do
hai thôn Phước Tích và Phú Xuân nhập lại. Tên xã Phong Hòa xưa là xã Phong Lâu
(do ở bên bờ sông Ô Lâu).
Vị trí làng Phước Tích tiện cho việc thông thương bằng đường thủy để
khai thác nguyên liệu và chở sản phẩm gốm đi bán. Quanh làng không có đất sét
và rất hiếm củi, nhưng theo các gia phả và ký ức người già thì suốt đời Minh Mạng
đến đời Khải Định, hàng tháng làng phải dâng nộp triều đình Huế 30 chiếc “om
ngự” làm nồi nấu cơm cho vua, ăn xong vứt bỏ. Do đó làng được đặc ân đi các nơi
khai thác những gì cần cho nghề: vào rừng ở truông Đôộc (Đôộc: gốm) (nay thuộc
Mỹ Xuyên cùng xã) lấy củi, sang cồn Gióng (nay thuộc xã Hải Chánh, huyện Hải
Lăng, Quảng Trị) lấy đất sét.
Sau này cồn Gióng không cho lấy đất nữa thì sang Dương Khánh (xã Hải
Dương cũng thuộc Quảng Trị) cách xa 30km đường đò. Đất ở Dương Khánh trên là
đất sét, dưới là mầu nên địa phương muốn cho lấy để lợi cho canh tác, lại được
Phước Tích trả sản lượng. Nay vẫn được dùng đất Dương Khánh. Sản phẩm truyền
thống “độc Phước Tích” có lu (chum), ghè, thạp, thống, om, (niêu) bùng binh
(ống tiết kiệm), tu huýt (còi) và ông táo nung chín thành sành, không có thấm
nước. Những sản phẩm trên được chở bán từ Nghệ An vào đến Nam Bộ. Thời kỳ hưng
thịnh, cả làng nhà nhà làm gốm và các gia đình góp vốn xây lò, cùng thuê thuyền
chở sản phẩm ra phá Tam Giang để đi các nơi xa. Họ mải miết, có khi chiều 30,
sáng mồng 1 Tết vẫn đi bán hàng.
Trong kháng chiến chống pháp, Phước Tích gặp nhiều khó khăn, dân phải bỏ
làng đi tản cư, nhưng đến đâu cũng mang theo nghề, họ lập lò nhỏ và gánh bộ đi
bán. Trong thời Mỹ - Ngụy tạm chiếm, do sự lan tràn của đồ nhôm, những thợ có
tay nghề khá vững là cán bộ đã ra Bắc tập kết, gốm phước Tích có nguy cơ tàn
lụi. Mãi năm 1975 dân làng sum họp, lại phục hồi nghề cũ. Họ góp vốn dựng lại
lò, nhưng không dùng lò cóc và lò Thanh kiểu cũ, học tập Hương Canh (Vĩnh Phúc)
đắp lò rồng mở rộng dung tích và tận dụng nhiệt hợp với từng loại sản phẩm.
Buổi đầu chưa thạo kỹ thuật mới, nhiều lần nung hỏng, sau mời thợ Hương Canh
vào sửa cho vài chi tiết, nung tốt nhưng vẫn chỉ sản xuất được gốm không men.
Từ năm 1985 học tập Biên Hòa đã có thêm lò mới, sản xuất được cả gốm có
men. Do tình hình thời tiết, các lò gốm hoạt động mạnh trong các quý II và quý
III, còn quý IV và quý I mưa gió nên ít đốt lò.
Cũng như nhiều làng gốm khác, bãi phế thải Cồn Trèn và khắp đường làng
chỗ nào cũng đầy mảnh gốm, chứng tỏ một chiều sâu lịch sử.
---ooo0ooo---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét